Giới
thiệu sách hay : Kinh tế Nhật Bản - Giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973
Hà
Dương Tường
19/09/2022 12:26
Hình bìa tác phẩm
“Kinh tế Nhật Bản - Giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973” của tác giả Trần
Văn Thọ
Trong một bài viết mang nhan đề "4.000 ngày thay đổi Việt Nam" trên báo Tuổi Trẻ ngày
26.1.2020, tác giả Trần Văn Thọ đã cho đóng khung ở cuối bài nhận xét này:
Trong thời cận đại, những nước thành công trong việc
rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước hầu như đều trải qua một giai đoạn
tăng trưởng cao (trên dưới 10%) trong một thời gian dài. Điển hình là Nhật Bản
18 năm (1955 - 1973), Hàn Quốc 13 năm (1982 - 1995) và Trung Quốc gần 30 năm
(1983 - 2011). Việt Nam chưa bao giờ có một giai đoạn phát triển cao như vậy.
Cuốn sách Kinh tế Nhật Bản - Giai đoạn
phát triển thần kỳ 1955-1973 tập trung trình bày điển hình thứ nhất,
"để cung cấp một tham khảo cho những bàn luận về mục tiêu năm 2045 của Việt
Nam" (Lời nói đầu sách), "bàn luận" mà tác giả đã phác hoạ vài
nét trong bài viết nói trên, đặt mục tiêu là "làm thay đổi Việt Nam, thay
đổi diện mạo Việt Nam trên trường quốc tế và thay đổi hẳn cuộc sống của người
Việt Nam cả chất và lượng" trong 4.000 ngày, từ đầu năm 2020 đến cuối năm
2030, một mục tiêu theo ông là có thể thực hiện được, nếu có
chiến lược, chính sách đúng đắn, kèm theo là những cải cách cần thiết. Vì
"nếu có khát vọng trở thành đất nước giàu mạnh để thực
hiện các cải cách cần thiết và các chính sách thích hợp" thì, theo
ông, thập niên 2020 sẽ là giai đoạn tăng trưởng cao của Việt Nam, "kết
quả có thể lớn hơn dự tưởng" khi các nguồn lực trong và ngoài nước được giải
phóng, được tận dụng.
Có thể nói, hai chữ "nếu"
trên đây (mà người viết bài này nhấn mạnh) là nội dung chủ yếu của phần II cuốn
sách, nơi tác giả nêu ra những yếu tố chủ quan quan trọng nhất làm nên những kỳ
tích phát triển của nước Nhật trong giai đoạn được nghiên cứu và mô tả trong phần
I. Đó là những yếu tố mà tác giả gọi chung là "năng lực xã hội",
bao gồm những tố chất của lãnh đạo chính trị (khát
vọng xây dựng đất nước, có tầm nhìn đại cuộc và năng lực quy tụ nhân tài...), của các trí thức, quan chức (có năng lực và thanh
liêm), doanh nhân (mưu tìm lợi nhuận không
phải là mưu tìm đặc lợi!) .., mỗi người trong vị trí của mình đem hết sở trường
hợp tác với nhau để xây dựng nên những thể chế của một "nhà nước kiến tạo phát triển". Hàng chục bức chân dung (rải rác trong cả
hai phần I và II) của những nhân vật nổi bật nhất của Nhật Bản thời hậu chiến,
từ Thủ tướng Yoshida Shigeru, người hình thành thể chế hậu chiến Nhật Bản, Thủ
tướng Ikeda Hayato, người đã biết vận dụng trí tuệ xuất sắc của kinh tế gia
Shimomura vào các ý tưởng chiến lược của mình để "thổi vào xã hội một
không khí phấn chấn, tin tưởng vào tương lai", cho đến Ibuka Masaru và
Morita Akio, những nhà sáng lập công ty Sony, hay Toyota Eiji, "ông tổ
trung hưng" của công ty xe hơi nổi tiếng... soi sáng cả hai khái niệm
"năng lực xã hội" và "nhà nước kiến tạo phát triển" ấy.
Nội dung của hai khái niệm này được tác giả trình bày rất rõ ràng, sáng tỏ
trong Chương Tổng luận đặt ở đầu sách, trước phần I.
Cuốn sách kết thúc với hai phụ chương ngắn của
phần III, về hai giai đoạn tiếp theo, giai đoạn củng cố vị trí cường quốc
kinh tế của Nhật (1973-1989), rồi 30 năm trì trệ (từ thập niên 1990 tới nay).
Phụ chương 2 "phân tích sơ bộ và đưa ra một vài giả thuyết" về 30 năm
trì trệ này.
Không phải ngẫu nhiên mà chương 5, chương cuối
của phần I, tóm tắt các "kỳ tích phát triển" này, mang nhan đề gần giống
như bài báo đã dẫn : "6.000 ngày làm thay đổi nước Nhật". Hiển
nhiên, tình cảm và suy tư của tác giả về Việt Nam quê hương ông nằm sau mỗi
dòng chữ, mỗi ý tưởng dẫn dắt ông trong nghiên cứu về những kỳ tích mơ ước ấy.
Dễ hiểu tại sao cuốn sách rất được người đọc đánh giá cao, phát hành tháng 5
thì tháng 6 đã bán hết (1) và đang chuẩn bị tái bản. Và nó cũng rất xứng
đáng được Giải
Sách Hay 2022 (hạng mục Sách Kinh tế), đồng thời với cuốn Việt
Nam hôm nay và ngày mai mà ông là đồng chủ biên cùng với TS Nguyễn
Xuân Xanh.
Chúc mừng tác giả về thành quả đáng ghi nhận
này và xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Diễn Đàn cũng xin cảm ơn tác giả
đã cho phép đăng lại dưới đây bản Mục lục cuốn sách và Chương Tổng luận.
Hà Dương Tường
--------------
Chú thích:
(1) Nhưng cũng phải nói là, theo số liệu in ở
trang cuối, sách chỉ được in 1.000 cuốn trong lần xuất bản đầu tiên. So với dân
số gần 100 triệu, và với con số hàng triệu bản của những cuốn sách nghiên cứu của
Nhật từ thời Minh Trị tìm đường canh tân đất nước, khi dân số chỉ khoảng 30 triệu,
con đường hiện đại hoá đất nước VN có vẻ còn xa ngái...
(*) Tác giả: Trần Văn Thọ, NXB Đà Nẵng 2021,
306 trang kể cả XVI trang mở đầu, 11 trang tài liệu tham khảo và 10 trang
dành cho hai Thư mục tra cứu (danh từ chung và riêng).
***
Kinh
tế Nhật Bản - Giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973
Mục lục
Lời nói đầu
Phương châm viết tên người Nhật và biểu thị một
số tiếng Nhật
Một số từ tiếng Nhật dùng nhiều trong sách
Danh mục Biểu và Hình
Chương tổng luận
Nhật Bản theo kịp Tây phương: Mô hình nhà nước
kiến tạo phát triển và năng lực xã hội
Phần I Kỳ tích phát triển hậu chiến Nhật Bản
Chương 1 Chính trị, kinh tế Nhật Bản những
ngày sau Thế chiến II
Chương 2 Đêm trước của một thời đại: Nhật Bản
giữa thập niên 1950
Chương 3 Mở cửa, hội nhập và chính sách công
nghiệp
Chương 4 Tích lũy tư bản và năng lực chuyển
hoán
Chương 5 6000 ngày làm thay đổi nước Nhật
Phần II Năng lực xã hội và kỳ tích phát triển
Chương 6 Năng lực xã hội và lãnh đạo chính trị
Chương 7 Quan chức nhà nước: anh hùng trong thời
đại phát triển
Chương 8 Tinh thần doanh nghiệp và kỳ tích
phát triển
Chương 9 Giáo dục, đào tạo và chất lượng lao động
Chương 10 Du nhập, cải tiến công nghệ và năng
lực xã hội
Phụ lục chương 10 Đường sắt cao tốc
(Shinkansen): Thành tựu công nghệ Nhật Bản
Phần III Phụ chương: Kinh tế Nhật Bản sau
giai đoạn phát triển thần kỳ
Phụ chương 1 Giai đoạn củng cố vị trí cường quốc:
1974-1989
Phụ chương 2 Tại sao kinh tế Nhật Bản suy
thoái từ thập niên 1990?
Tư liệu tham khảo
Mục tra chữ
*
Chương tổng luận
Nhật
Bản theo kịp Tây phương:
Mô
hình nhà nước kiến tạo phát triển và năng lực xã hội
Nhật Bản là một điển hình thành công của một nước đi sau theo kịp các
nước tiên tiến trong quá trình phát triển. Quá trình khởi đầu từ thời Minh Trị
duy tân nhưng do những hạn chế của thời đại (về thông tin, về các phương tiện
và thời gian để hấp thu những tiến bộ của thế giới văn minh, v.v..) và vì phải
trải qua nhiều cuộc chiến tranh, Nhật phải đợi đến thập niên 1970 mới đạt mục
tiêu quốc gia đó. Vươn lên từ một đất nước bị tàn phá trong Chiến tranh Thế giới
thứ hai, chỉ trong vòng 10 năm Nhật hồi phục lại mức phát triển cao tiền chiến
và tiếp theo là giai đoạn phát triển ngoạn mục 18 năm (1955-1973) đã làm thay đổi
hẵn đời sống của người dân và vị trí của Nhật trên vũ đài quốc tế. Giai đoạn 18
năm đó được xem là thời đại phát triển thần kỳ vì vừa đạt tốc độ tăng trưởng rất
cao (trung bình 10%/năm) và liên tục kéo dài gần 20 năm, vừa thực hiện phân phối
thu nhập rất công bằng nhờ thực hiện toàn dụng lao động, cơ hội bình đẳng và
các chính sách về thuế. Giai đoạn phát triển đó làm cho Nhật tiến kịp các nước
tiên tiến Tây phương và đưa Nhật lên địa vị cường quốc công nghiệp.
Yếu tố nào mang lại hiện tượng phát triển thần
kỳ đó? Theo tôi hai thuật ngữ, hai từ khóa để phân tích sự thành công của Nhật
là nhà nước định hướng phát triển hoặc nhà nước kiến tạo phát triển
(development state) và năng lực xã hội (social capability). Yếu tố thứ nhất đặc
biệt quan trọng vì ngoài vai trò hoạch định, tổ chức, thực hiện chiến lược,
chính sách phát triển còn có ảnh hưởng đến tính chất của yếu tố thứ hai trong
đó có việc xây dựng cơ chế để tăng năng lực xã hội.
Thế nào là một nhà
nước kiến tạo phát triển?
Phát triển là quá trình tích lũy tư bản, sáng
tạo hoặc áp dụng công nghệ và sử dụng các nguồn lực như lao động, đất đai, qua
việc tăng năng suất các nguồn lực này, để liên tục tăng thu nhập và cải thiện
cuộc sống của người dân. Trên bình diện quốc tế, từ vị trí của một nước đi sau,
phát triển là quá trình thay đổi cơ cấu phân công quốc tế, chuyển dịch lợi thế
so sánh từ thấp lên cao, làm thay đổi vị trí của đất nước trên vũ đài thế giới.
Trong quá trình đó, củng cố nội lực song song với sử dụng ngoại lực (như công
nghệ, tư bản, học tập kinh nghiệm quản lý, xây dựng thể chế) có hiệu quả nhanh
chóng rút ngắn khoảng cách với các nước đi trước.
Yếu tố quan trọng nhất quy định sự thành công
hay thất bại, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng phát triển là thể chế.
Trước hết nói về sự khác nhau của các thể chế
chính. Thể chế, ở đây chủ yếu là thể chế kinh tế, là tính chất của quan hệ giữa
nhà nước (state) và thị trường (market). Khi vai trò của thị trường không được
chấp nhận, chỉ có nhà nước phân bổ nguồn lực, quyết định tất cả các hoạt động
kinh tế, thông qua doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã, thì đó là thể chế kế
hoạch hóa tập trung, điển hình là Liên xô trước đây hay Việt Nam trước đổi mới.
Ngược lại là thể chế kinh tế thị trường thuần túy, được vận hành hoàn toàn theo
nguyên lý thị trường, cạnh tranh tự do giữa các doanh nghiệp tư nhân và thị trường
quyết định cung cầu, giá cả. Theo lý luận thì trường hợp thứ hai nầy là thể chế
kinh tế tại các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng trên thực tế, từ khi kinh tế học của
Keynes xuất hiện giữa thập niên 1930, vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng,
nhất là trong việc ổn định vĩ mô, tăng việc làm, giảm lạm phát, v.v.. Giữa các
nước tư bản thế chế kinh tế cũng không hoàn toàn giống nhau, nhất là giữa những
nước có trình độ phát triển khác nhau, tuy cùng theo chủ nghĩa tư bản nhưng vai
trò của nhà nước cũng khác. Trong cuốn sách xuất bản đầu thập niên 1980, MITI
and the Japanese Miracle (Bộ Công Thương và Kỳ tích Nhật Bản), giáo sư
Chalrmers Johnson cho rằng nhà nước ở Nhật khác với Mỹ. Mỹ là nhà nước theo quy
ước hay quy chế (regulatory state), có vai trò giám sát, hạn chế hoạt động của
doanh nghiệp tư nhân (bằng luật lệ, pháp lệnh) để không đi xa các nguyên tắc cơ
bản của kinh tế thị trường. Còn thể chế ở Nhật Bản là nhà nước phát triển
(development state) hay nhà nước phát triển tư bản chủ nghĩa (capitalist
development state), trong đó nhà nước đặt mục tiêu phát triển đất nước thành ưu
tiên hàng đầu, tạo các cơ chế để cùng với doanh nghiệp bàn bạc về nội dung, đường
hướng phát triển và đưa ra các chính sách cụ thể để thực hiện mục tiêu phát triển
(Johnson 1982).
Quan hệ giữa nhà nước và thị trường cũng được bàn nhiều trong kinh tế học
phát triển. Sau Thế chiến thứ II, vấn đề của các nước mới giành được độc lập là
phát triển kinh tế. Với những điều kiện ban đầu không thuận lợi và thị trường
chưa hình thành, nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Các chiến lược công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu, bảo hộ nền công nghiệp còn non trẻ, v.v.. ra đời trong
bối cảnh đó. Nói chung, những nước đi sau trong quá trình công nghiệp hóa cũng
nhấn mạnh vai trò của nhà nước, đặc biệt phản ánh rõ nhất trên chính sách công
nghiệp (industrial policy). Từ đầu thập niên 1980 vai trò của thị trường, nhất
là cạnh tranh trên thị tường thế giới được chú ý khi các nước công nghiệp mới
xuất hiện mà đặc tính là công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Chủ trương này
hòa nhập với tư tưởng tự do cạnh tranh, nới lỏng qui chế (deregulations), tư
nhân hóa doanh nghiệp, v.v.. ở Anh, Mỹ và Nhật trong thập niên 1980. Đỉnh cao của
trào lưu tự do trong kinh tế, trong ngoại thương được gói ghém trong thuật ngữ
Đồng thuận Washington (Washington Consensus), ra đời năm 1989.
Đầu thập niên 1990, bản báo cáo nổi tiếng Kỳ
tích Đông Á (East Asian Miracle) của Ngân hàng Thế giới (World Bank
1993) đưa ra một chủ trương chiết trung về quan hệ giữa nhà nước và thị trường
sau khi phân tích sự thành công của các nước Đông Á. Ở đây vai trò của nhà nước
được đánh gía trở lại nhưng cũng chỉ giới hạn trong phạm vi can thiệp vào thị
trường với sự thân thiện (market-friendly intervention).
Từ cuối thập niên 1990, thể chế WTO và sự xuất
hiện ngày càng nhiều những hiệp định thương mại tự do (FTA) làm hạn chế vai trò
của nhà nước ở các nước đi sau trong quá trình công nghiệp hóa. Trong tình hình
đó nhà nước tại nhiều quốc gia cũng không đóng vai trò tích cực trong việc đẩy
mạnh việc khởi tạo hay nuôi dưỡng, yểm trợ các ngành công nghiệp. Nhưng đây là
một suy nghĩ hay thái độ không đúng đắn. Những nước lớn trên thế giới gần đây
cũng phát huy vai trò tích cực của nhà nước để kinh tế mạnh hơn. Ngay cả tại Mỹ,
một nước điển hình tư bản chủ nghĩa, trong mấy thập niên qua nhà nước đã đóng
vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo làm cơ sở cho doanh nghiệp tư nhân
phát triển. Mariana Mazzucato (2015) đã dùng khái niệm nhà nước khởi tạo hay
nhà nước khởi nghiệp (entrepreneurial state) để phân tích hiện tượng đó.
Nhưng nhà nước kiến tạo phát triển tại một nước
còn ở giai đoạn phát triển thấp hay trung bình chắc chắn phức tạp hơn, khó
thành công hơn trường hợp của một nước đã phát triển đến giai đoạn cao như Mỹ.
Dưới đây trước hết ta sẽ bàn sâu hơn vào nội dung cụ thể và điều kiện thành
công của một nhà nước kiến tạo phát triển trong trường hợp của một nước đi sau
trong quá trình rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước. Sau đó,
từ những phân tích trong các chương của cuốn sách này ta rút ra các đặc tính,
các kinh nghiệm thành công của Nhật Bản.
Nhà nước kiến tạo phát triển hay nhà nước theo
chủ nghĩa phát triển là nhà nước lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm ưu tiên hàng
đầu, từ đó đưa ra mục tiêu phát triển làm cho dân giàu nước mạnh, và tạo các cơ
chế động viên, thúc đẩy các nguồn lực để đạt mục tiêu. Một nước còn ở trình độ
phát triển thấp hay trung bình thì mục tiêu phát triển thông thường là công
nghiệp hóa, là đưa đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Mặt
khác, việc phát triển đất nước phải được đặt trong tương quan với thế giới bên
ngoài. Sau thế chiến thứ hai các nước đi sau không còn lo về nguy cơ bị thực
dân hóa nhưng không phát triển thì bị lệ thuộc kinh tế, từ lệ thuộc kinh tế sẽ
chuyển sang lệ thuộc về chính trị. Lãnh đạo của nhà nước kiến tạo phát triển do
đó phải có tinh thần dân tộc, có khí khái, hoài bão, quyết làm cho đất nước
giàu mạnh để sánh vai với các nước tiên tiến. Trong một thế giới mà trật tự đã
được các nước tiến tiến xác lập và bất lợi đối với các nước chưa phát triển,
lãnh đạo của nước đi sau phải đủ trí tuệ và bản lãnh tìm ra chiến lược phù hợp
với lợi ích của đất nước mình. Vào giữa thế kỷ 19, trật tự thế giới lúc đó do
Anh chủ đạo với lý thuyết tự do mậu dịch. Nhưng Đức, một nước đi sau, không chấp
nhận thể chế tự do mậu dịch vì như vậy sẽ không thể nào công nghiệp hóa trước
hàng công nghiệp nhập ào ạt từ Anh. Người đưa ra lý luận để bảo vệ lập trường của
Đức là Freidrich List. Theo List (1841), sức mạnh của một nước không tùy thuộc
vào của cải, tài sản hiện có mà tùy vào năng lực tạo ra tài sản, của cải mới,
và để có năng lực đó phải tích lũy tư bản và đào tạo lao động lành nghề; năng lực
đó cần thời gian mới có, khi chưa có được phải bảo hộ, đây là bảo hộ ngành công
nghiệp non trẻ; chính sách mậu dịch (tự do hay bảo hộ) của một nước tùy theo
trình độ, giai đoạn phát triển của nước đó, không thể giống nhau ở mọi nước. Thời
Minh Trị, các nhà lãnh đạo Nhật Bản cũng có cùng chủ trương như List ở Đức mấy
chục năm trước đó, nhưng Nhật gặp khó khăn hơn vì phải thực hiện Hiệp ước bất
bình đẳng do chính quyền trước (Edo) ký với Mỹ và một số nước Tây Âu, trong đó
Nhật không được bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan. Các lãnh đạo thời Minh Trị đã nỗ
lực vừa xây dựng đất nước vừa thương lượng với các nước Tây phương để chấm dửt
hiệp ước bất lợi đó (kết quả là năm 1899 Nhật tranh thủ được một phần và đến
năm 1911 thì hồi phục hoàn toàn chủ quyền quan thuế).
Với trật tự, thể chế kinh tế thế giới từ sau
thế chiến thứ hai, Nhật Bản đã chọn lựa một chiến lược vừa hội nhập vừa củng cố
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế như sẽ thấy dưới đây, nhưng vẫn có điểm
chung với Đức và Nhật thế kỷ 19 là đề cao tinh thần dân tộc và lấy lợi ích đất
nước làm ưu tiên hàng đầu.
Một nội dung quan trọng khác liên quan nhà nước
kiến tạo phát triển trong quan hệ đối ngoại là phát huy tinh thần học tập từ những
nước tiên tiến. Gerschenkron (1962) có đưa ra khái niệm “lợi thế của nước đi
sau” (the advantage of backwardness) để phân tích hiện tượng các nước đi sau có
thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước trong một thời gian
ngắn. Các nước đi trước đã mất nhiều năm nghiên cứu, khám phá công nghệ, thử
nghiệm các chính sách, các phương thức quản lý, các chiến lược phát triển. Các
nước đi sau có thể học tập thành quả nghiên cứu và kinh nghiệm phát triển từ
các nước đi trước nên có thể thực hiện thành quả phát triển trong 30-40 năm
thay vì 100 năm hay lâu hơn ở các nước tiên tiến. Từ thế kỷ 19 những nước thành
công trong công nghiệp hóa đều bắt đầu một quá trình học tập từ các nước tiên
tiến. Nói theo thuật ngữ của Alice Amsden (1989) khi phân tích kinh nghiệm của
Hàn Quốc thì các nước thành công trong phát triển là nhờ thực hiện công nghiệp
hóa trên cơ sở của học tập (industrialization on the basis of learning). Sự
quan trọng của học tập trong chiến lược công nghiệp hóa để theo kịp các nước đi
trước ngày càng được được quan tâm cả trong giới học thuật và giới lãnh đạo ở
nhiều nước. Gần đây, Arkebe Oqubay, cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Ethiopia, và
Ohno Kenichi, giáo sư kinh tế phát triển Đại học GRIPS (Tokyo), vừa biên tập và
xuất bản cuốn sách quan trọng Các nước đã học tập như thế nào? (Oqubay
and Ohno 2019). Với sự tham gia của gần 20 nhà nghiên cứu, cuốn sách phân tích
vấn đề học tập ở 3 cấp (nhà nước, ngành sản xuất và doanh nghiệp) và rút ra các
điều kiện để một nước đi sau học tập thành công.
Cho đến nay, có lẽ Nhật Bản thời Minh Trị là
trường hợp điển hình nhất của một nhà nước kiến tạo phát triển đã thực hiện một
chương trình học tập từ các nươc tiên tiến Tây phương với quy mô và chất lượng
chưa từng thấy ở các nước khác. Đó là Phái đoàn Iwakura do chính quyền Minh Trị
tổ chức đi học hỏi trực tiếp văn minh Tây phương rất nhiều ngày, qua nhiều nước,
khảo sát rất cặn kẻ và bao gồm rất nhiều lãnh vực, sau khi về nước đã viết lại
các bản báo cáo nhiều tập, áp dụng rộng rãi trong việc xây dựng đất nước. Đặc
biệt đoàn đi học tập nầy vừa đông (46 người) vừa gồm rất nhiều nhân vật cấp
lãnh đạo cao nhất như Ito Hirobumi (sau trở thành người soạn thảo bản hiến pháp
đầu tiên và trở thành thủ tướng đầu tiên), Okubo Toshimichi, người lập ra chiến
lược phú quốc cường binh để thực hiện mục tiêu “theo kịp và vượt Tây phương”.
Thời gian đi khảo sát kéo dài tới gần 2 năm từ cuối năm 1871 đến tháng 9 năm
1873. Sau khi trở về nước, kết quả học tập ở Âu Mỹ được soạn thành bộ tư liệu Thực
ký về chuyến quan sát Âu Mỹ của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Đây là bộ
tư liệu đồ sộ, gồm tới 100 tập, riêng kết quả học tập ở Mỹ và Anh, mỗi nước soạn
thành 20 tập, Đức 10 tập, Pháp 9 tập, v.v.. Việc học tập của Nhật Bản thời đó
còn được thực hiện qua việc phiên dịch rất nhiều sách về luật pháp, kinh tế,
khoa học. Tôi đã có dịp viết về nỗ lực phi thường của Nhật trong dịch thuật này
(Trần V Thọ, 2008). Các lãnh đạo thời Minh Trị, với sứ mệnh canh tân để phát
triển đất nước, đã học tập tiếp thu tích cực văn minh, văn hóa Tây phương. Tinh
thần nầy được kế tục sau thế chiến thứ hai và góp phần làm nên giai đoạn phát
triển thần kỳ như sẽ thấy dưới đây.
Trên đây là những nội dung cơ bản của một nhà
nước kiến tạo phát triển. Nhưng từ các nội dung đó làm sao xây dựng các cơ chế,
pháp luật, chiến lược, chính sách cụ thể và nghệ thuật thực hiện các chiến lược,
chính sách phát triển là cả một vấn đề lớn, quyết định sự thành bại của nhà nước
phát triển. Có thể gọi đó là các thể chế (institutions) cụ thể cần xây dựng và
vận hành để đạt mục tiêu phát triển đất nước. Trong việc xây dựng và vận hành
các thể chế này phải giải quyết một loạt nhiều vấn đề phức tạp, trong đó nhiều
chíến lược, chính sách sẽ thay đổi theo những thay đổi, đôi khi đột biến, của
môi trường quốc tế. Dưới đây qua phân tích trường hợp của Nhật Bản trong giai
đoạn phát triển thần kỳ ta sẽ thấy được nội dung cụ thể của các thể chế đó.
Nhà nước kiến tạo
phát triển Nhật Bản
trong giai đoạn
phát triển thần kỳ
Hai chủ thể chính của nhà nước là lãnh đạo
chính trị và quan chức, và động lực trực tiếp để kinh tế phát triển là doanh
nghiệp và lao động. Đặc biệt quan trọng là doanh nghiệp tức chủ thể đầu tư,
tích lũy tư bản, cách tân công nghệ, nghiên cứu thị trường và sử dụng lao động.
Một thành phần nữa của xã hội là trí thức, có vai trò đóng góp trí tuệ vào việc
hình thành chiến lược, chính sách hoặc phản biện chính sách, và phát hiện vấn đề,
đề khởi phương pháp giải quyết vấn đề liên quan hướng đi tương lai để các thành
phần khác, kể cả người trách nhiệm trong bộ máy nhà nước và doanh nghiệp tham
khảo. Một nhà nước kiến tạo phát triển phải có cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp
tích cực đầu tư, cách tân công nghệ, có cơ chế thu hút nhân tài vào bộ máy nhà
nước, có cơ chế để trí thức phản biện và góp trí tuệ vào việc hình thành chiến
lược, chính sách. Một trách nhiệm quan trọng nữa của nhà nước là giáo dục, đào
tạo để tăng chất lượng lao động. Những nội dung nầy đã được thực hiện như thế
nào trong thời đại phát triển thần kỳ của Nhật Bản? Dưới đây ta tóm tắt một số
điểm quan trọng đã được phân tích trong sách này.
Thứ nhất, tinh thần trách
nhiệm, nhãn quan bén nhạy của lãnh đạo chính trị đối với lợi ích của dân tộc và
ước vọng dân chúng đã cổ vũ toàn dân hướng vào mục tiêu do nhà nước đưa ra. Sau
khi thế chiến thứ hai chấm dứt, đất nước bị Mỹ chiếm đóng, cơ sở vật chất bị
tàn phá nặng nề, lạm phát phi mã, số người thất nghiệp tăng đột biến do quân đội
giải ngũ. Giành lại độc lập chính trị và phục hưng hậu chiến là hai mục tiêu đặt
ra hàng đầu. Với quyết tâm và tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo, nhất là của
thủ tướng Yoshida Shigeru, với sự tham gia tích cực của trí thức và doanh nghiệp,
chỉ trong 10 năm Nhật đã thành công trong phục hưng hậu chiến. Tuy có sự hỗ trợ
của Mỹ và tác động tích cực của Chiến tranh Triều Tiên (1950-53) nhưng nội lực
của Nhật quan trọng hơn. Trong giai đoạn nầy, cùng với lãnh đạo chính trị và
quan chức, trí thức và doanh nghiệp cũng đóng vai trò lớn. Thời đó, cả trí thức
mác-xit (như giáo sư kinh tế Arisawa Hiromi của Đại học Tokyo) và các trí thức
khác (như tiến sĩ Tsuru Shigeto trở về từ Đại học Harvard) đều được trọng dụng
và đều có vai trò quan trọng trong việc hoạch chiến lược hồi phục kinh tế. Về
doanh nghiệp, đáng kể nhất là Sony và Honda, những công ty tiêu biểu ngày nay,
đã ra đời trong giai đoạn phục hưng hậu chiến, và đều khởi đầu bằng hoài bão
xây dựng đất nước. Trong buổi lễ sáng lập công ty Sony năm 1946, Ibuka Masaru
đã nói “ta phải đem công nghệ đóng góp vào việc phục hưng tổ quốc chúng ta”.
Honda Soichiro, người sáng lập Honda năm 1948, thì chủ trương doanh nghiệp nầy
là của chung, ra đời vì mục đích chung, phục vụ cho xã hội, cho đất nước.
Sau 10 năm phục hưng hậu chiến, Nhật bước vào
giai đoạn mới. Lúc này xuất hiện nhà chính trị kiệt xuất Ikeda Hayato. Ông có
nhãn quan nhìn thấu khát vọng của người dân là phải thay đổi cuộc sống và thực
hiện giấc mơ theo kịp Tây phương của cha ông từ thời Minh Trị. Nhiều người kể rằng
từ khi làm Bộ trưởng Tài chánh ông thích và thường nói đến 4 chữ “ kinh quốc vi
dân” (vì dân mà trị nước), đó là lý tưởng làm cho dân giàu nước mạnh. Ông tự
tin là người Nhật có tiềm năng thực hiện được giấc mơ theo kịp Tây phương.
Nhưng bắt đầu từ đâu, thực hiện như thế nào? Lúc này ông cần đến trí thức, đến
chuyên gia. Trong lúc suy nghĩ, tìm đọc sách vở, ông bắt gặp bài viết của giáo
sư kinh tế Nakayama Ichiro về sự cần thiết và khả năng bội tăng tiền lương của
lao động trong 10 năm tới. Nhờ đó Ikeda thai nghén kế hoạch bội tăng thu nhập
quốc dân. Nhưng để vũ trang lý luận cho ý tưởng nầy ông đã nhờ đến nhà kinh tế
Shimomura Osamu. Vào thời đó, các trí thức, các nhà kinh tế bàn luận sôi nổi về
tiềm năng của kinh tế Nhật trong giai đoạn tới, và ý kiến của Shimomura là có sức
thuyết phục nhất và hứa hẹn tương lai tươi sáng của Nhật. Shimomura cho rằng tỉ
lệ tiết kiệm của Nhật khá cao, tình hình quốc tế thuận lợi để Nhật có thể du nhập
công nghệ dễ dàng từ Âu Mỹ và các doanh nghiệp đang hăng hái tìm cơ hội đầu tư,
do đó chỉ cần có chiến lược, chính sách đúng đăn, có cơ chế thích hợp thì kinh
tế có thể tăng trưởng rất cao trong thời gian dài. Nhà chính trị yêu nước Ikeda
kết hợp với trí tuệ của các trí thức Nakayama, Shimomura đã khai sinh ra kế hoạch
bội tăng thu nhập quốc dân, cốt lõi của giai đoạn phát triển thần kỳ. Ikeda và
kế hoạch bội tăng thu nhập nầy đã thổi vào xã hội một luồng không khí phấn chấn,
đặc biệt doanh nghiệp lạc quan về tương lai, tích cực du nhập công nghệ, xây dựng
nhà máy mới hoặc thay đổi thiết bị cũ, làm nên hiện tượng mà sách trắng kinh tế
năm 1960 gọi là “đầu tư kêu gọi đầu tư”.
Thứ hai, từ cuối thập
niên 1950 Nhật đứng trước cơ hội và thách thức của hội nhập vào thị trường thế
giới, và nhà nước đã kết hợp với trí tuệ của trí thức để đưa ra chiến lược hội
nhập từng bước đồng thời khẩn trương củng cố nội lực, cuối cùng đã thành công
ngoạn mục. Thời ấy gia nhập GATT (tiền thân WTO) và OECD là đón nhận
cơ hội thâm nhập thị trường thế giới, nhưng đồng thời thách thức trước hàng hóa
và tư bản nước ngoài tràn vào thị trường Nhật trong lúc kinh tế còn non yếu,
doanh nghiệp còn nhỏ là một thách thức lớn. Nhà nước, trí thức và doanh nghiệp
bàn luận sôi nổi. Cuối cùng Nhật đã quyết định hội nhập nhưng từng bước, kéo
dài nhiều năm mới thực hiện toàn bộ cam kết với thế giới. Họ cho thấy nỗ lực
phi thường trong việc nghiên cứu lộ trình hội nhập, thương lượng, thuyết phục
các nước chấp nhận vị trí (còn yếu kém) và đề xuất của Nhật. Quan trọng không
kém là nỗ lực tăng cạnh tranh quốc tế với tốc độ nhanh hơn lộ trình cam kết thực
hiện mở cửa. Kết quả là sức cạnh tranh của hàng công nghiệp tăng nhanh hơn dự
tưởng và Nhật đã thực hiện lộ trình hội nhập sớm hơn cả cái mốc đã cam kết phải
thực hiện. Cho đến nay chưa thấy nước nào có được thành tích hội nhập kỳ diệu
như vậy. Thành tích nầy là kết quả của những yếu tố khác đề cập dưới đây liên
quan đến nhà nước kiến tạo phát triển.
Thứ ba, tập thể quan chức
tài năng, thanh liêm, mang trong mình sứ mệnh cao cả đã vạch ra chiến lược,
chính sách đúng đắn và quản lý, thực hiện có hiệu quả. Những quan chức
tài năng của Bộ kế hoạch kinh tế như Okita Saburo, Miyazaki Isamu là những người
phụ trách triển khai Kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân của thủ tướng Ikeda.
Quan chức Bộ Công Thương trực tiếp chỉ đạo và thực thi các kế hoạch phát triển
công nghiệp, phát huy tinh thần dân tộc trong quá trình Nhật cạnh tranh với các
nước đi trước, đã để lại dấu ấn cả trong văn chương Nhật Bản. Hai quan chức
Sahashi Shigeru và Miyake Yukio của Bộ Công Thương trở thành nguồn cảm hứng để
nhà văn Shiroyama Saburo xây dựng nhân vật chính trong tiểu thuyết Mùa
hè của các quan chức (Shiroyama 1980). Trong bài viết “Hình tượng anh
hùng trong thời đại phát triển” tôi cũng đề cập nhiều đến tinh thần yêu nước và
nỗ lực phi thường của các quan chức Bộ Công Thương Nhật (Trần V Thọ 2010). Thời
đất nước còn khó khăn, ngân sách và ngoại tệ hạn hẹp, lãnh đạo và quan chức rất
tiết kiệm của công. Ikeda Hayato, nhà chính trị kiệt xuất đã nói ở trên, từng
là quan chức và lãnh đạo Bộ Tài chánh, lúc còn làm Bộ trưởng đẫn đầu đoàn công
du gồm nhiều quan chức của bộ sang Mỹ vào năm 1958. Đoàn đã thuê khách sạn 3
sao và hai người (kể cả bộ trưởng) ở chung phòng.
Ngoài tinh thần dân tộc, yếu tố văn hóa nói
chung của người Nhật trong thời đại phát triển để theo kịp phương Tây, chế độ
thi tuyển và cơ chế đãi ngộ cũng làm cho Nhật có một đội ngũ quan chức tài năng
và thanh liêm. Vượt qua mấy cửa ải khó khăn mới được tuyển vào các bộ trong
chính phủ, thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ và văn hóa, quan chức luôn cảm
thấy lòng tự hào với sứ mệnh tham gia hoạch định chiến lược, chính sách để đất
nước phát triển. Dĩ nhiên chế độ đãi ngộ cũng làm quan chức không bận tâm về cuộc
sống của mình và gia đình để có thể chuyên tâm lo việc nước. Luật lệ, cơ chế đầy
đủ và minh bạch nên nếu có tham nhũng hay biển thủ công quỹ thì số tiền cũng rất
nhỏ, nhiều lắm chỉ bằng một năm lương của quan chức. Do đó nếu có quan chức tha
hóa, họ cũng không dám phạm tội vì nếu bị lộ thì phải chịu một chế tài quá nặng.
Thứ tư, công nghiệp hóa
là cốt lõi của quá trình phát triển, nhà nước kiến tạo phát triển của Nhật thể
hiện rõ nhất ở việc xây dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp và đã
thành công. Việc xây dựng chiến lược nuôi dưỡng và phát triển công
nghiệp được chuẩn bị chu đáo, dựa theo lộ trình cam kết hội nhập và kèm theo
các công cụ chính sách cụ thể để thực hiện. Tất cả các chính sách cho các ngành
công nghiệp chủ đạo đều có hạn định về thời gian, và sau thời gian đó nền công
nghiệp phải cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Chẳng hạn xem trường hợp
ngành ô-tô. Theo lộ trình cam kết mở của và hội nhập nói ở điểm thứ hai, ngành
ô-tô được bảo hộ bằng quan thuế đến năm 1965. Trong thời gian 10 năm kể từ giữa
thập niên 1950, Nhật đã khẩn trương lập chính sách nuôi dưỡng, củng cố sức cạnh
tranh bằng Luật lâm thời chấn hưng ngành cơ khí (tháng 6/1956) để đẩy mạnh sản
xuất công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô-tô, trong đó chỉ định 17 ngành linh kiện
ô-tô cấp I được ưu tiên nuôi dưỡng bằng vốn ưu đãi đặc biệt từ Ngân hàng phát
triển của nhà nước, và linh kiện ô-tô cấp II thì được hỗ trợ tín dụng từ Quỹ
cho vay dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với doanh nghiệp lớn, nhà nước giúp
đỡ bằng các chính sách thuế khóa và cho vay ưu đãi từ Ngân hàng phát triển để
thay đổi thiết bị hoặc xây dựng nhà máy mới, ưu tiên được dùng ngoại tệ để nhập
khẩu công nghệ, v.v. Được bảo hộ và nuôi dưỡng có thời hạn nên doanh nghiệp đã
nỗ lực để có thể tự lập và cạnh tranh sau thời gian đó. Với các chính sách của
nhà nước và với phản ứng tích cực của doanh nghiệp tư nhân, ngành ô-tô đã phát
triển ngoạn mục. Chỉ trong vòng 7 năm, từ 1956 đến 1963, sản lượng ô- tô đã
tăng 10 lần (từ 100.000 tăng lên 1 triệu chiếc). Cuối thập niên 1950 sản lượng
ô-tô của Nhật chỉ bằng 1/20 Mỹ và 1/7 Tây Đức, và Pháp, Anh, Ý cũng bỏ xa Nhật,
nhưng đến năm 1979 Nhật đã trở thành nước sản xuất ô-tô nhiều nhất thế giới.
Thứ năm, nhà nước kiến tạo phát
triển Nhật Bản trong nền kinh tế thị trường mà doanh nghiệp tư nhân là chủ đạo
đã xây dựng được một cơ chế về sự quan hệ lành mạnh và hiệu quả giữa nhà nước
và doanh nghiệp. Có hai công cụ chính. Một
là Hội đồng tư vấn hay Hội đồng thẩm nghị (shingikai). Đây là cơ quan
chính phủ lập ra với sự tham gia của đại biểu các tầng lớp dân chúng, gồm doanh
nghiệp, trí thức, nhà báo, cựu quan chức, v.v...để họp bàn và đưa đề án về
chính sách đến chính phủ. Có shingikai của thủ tướng (như Hội
đồng tư vấn kinh tế) và shingikai của các bộ trưởng.
Ngoài shingikai còn có một hình thức với qui mô nhỏ hơn gọi
là kondankai (hội trao đổi ý kiến) cũng qui tụ các thành phần
như shingikai nhưng bàn các vấn đề có phạm vi hẹp hơn. Chiến
lược, chính sách cơ cấu công nghiệp hình thành từ shingikai về
Cơ cấu công nghiệp; và các chính sách phát triển công nghiệp hình thành từ
các shingikai hoặc kondankai chuyên ngành của
Bộ trưởng Bộ Công Thương. Ngoài ra, Bộ Công Thương còn hội họp bàn thảo riêng với
từng ngành công nghiệp trước khi quyết định các chính sách quan trọng. Chính
sách bảo hộ và nuôi dưỡng công nghiệp ô-tô nói ở điểm thứ tư hình thành do kết
quả các buổi thảo luận giữa quan chức Bộ Công Thương và lãnh đạo doanh nghiệp
ngành ô-tô.
Hai là chính phủ dùng hình thức “chỉ đạo hành
chánh” (administrative guidance) để can thiệp vào hoạt động doanh nghiệp khi cần
thiết với mục đích bảo vệ lợi ích đất nước hoặc tăng sức cạnh tranh của một
ngành công nghiệp. Mỗi doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ và cạnh tranh nhau đôi
khi ảnh hưởng đến lợi ích của đất nước, hoặc khó đạt hiệu suất của toàn ngành
công nghiệp và của từng doanh nghiệp. Có thể kể ra vài ví dụ điển hình. Vào cuối
thập niên 1950, Toray và Teijin, hai công ty tơ sợ tổng hợp cạnh tranh nhau tại
thị trường quốc nội, cùng một lúc đi mua công nghệ polyester của công ty Anh
ICI. Bộ Công Thương lo sợ hai công ty Nhật cùng cạnh tranh mua một nguồn công
nghệ sẽ đưa đến kết quả là mua giá đắt, bất lợi cho Nhật nên đã dàn xếp để hai
công ty cùng đi thương lượng. Kết quả là công nghệ được nhập khẩu với giá thấp
và hai công ty cùng sử dụng. Một ví dụ khác là trong quá trình chuẩn bị mở cửa
hội nhập, Bộ Công Thương nhận thấy cần phải có một vài công ty thép lớn và mạnh
mới có thể cạnh tranh với thép Âu Mỹ, nên năm 1968 đã dàn xếp khuyên hai công
ty Yawata và Fuji hợp nhất thành công ty Nippon Steel (ra đời năm 1971). Ô- tô
là ngành có tính quy mô kinh tế rất cao, quy mô sản xuất càng lớn thì giá thành
càng thấp. Nhận thấy có hơn 10 công ty cạnh tranh trong thị trường còn nhỏ, Bộ
Công Thương đã “chỉ đạo” các công ty kết hợp thành 3 nhóm để vừa điều chỉnh
phân công đầu tư trong nội bộ mỗi nhóm nhằm đạt tính quy mô kinh tế vừa duy trì
cạnh tranh giữa các nhóm.
Việc can thiệp, chỉ đạo hành chánh dĩ nhiên có
chọn lựa, được cân nhắc kỹ và thường có tính thuyết phục chứ không ép buộc. Nhà
nước là nơi tập trung thông tin, phân tích tình huống có chất lượng nhờ đội ngũ
quan chức có năng lực, và nhờ kết tập trí tuệ của dân chúng qua hình thức shingikai và kondankai. Do
đó những chỉ đạo hành chánh thường có sức thuyết phục. Mặt khác, chính phủ cũng
dùng cơ chế ưu đãi về tài chánh và thuế để khuyên khích doanh nghiệp hành động
theo hướng được gợi ý chỉ đạo. Trường hợp 3 nhóm doanh nghiệp ô-tô nói trên được
vay vốn ưu đãi để thay đổi thiết bị theo hướng phân công trong nội bộ mỗi nhóm.
Quá trình quyết định chính sách qua hình thức shingikai tăng
tính công khai, minh bạch. Thêm vào đó, với phẩm chất của quan chức nói ở trên,
ta thấy ở Nhật rất ít xảy ra hiện tượng doanh nghiệp hay các nhóm lợi ích tiếp
cận với quan chức để mưu tìm lợi ích bất chính (rent-seeking).
Thứ sáu, nhà nước từ rất
sớm đã thấy rõ sự quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) nên đã có cơ chế
thúc đẩy phát triển. Năm 1954, có tới 44% lao động làm việc trong các
doanh nghiệp chế tạo có số công nhân viên dưới 30 người. Trong các ngành dịch vụ
thì con số đó lên tới 74%. Biết được ba cái yếu cơ bản của SMEs là không đủ nguồn
lực để tự lập, khó tiếp cận với vốn vay để đầu tư và không có khả năng thu thập
phân tích thông tin về thị trường, về công nghệ, nhà nước đã lập ra các định chế
giúp SMEs giải quyết 3 vấn đề đó. Luật Tổ chức doanh nghiệp nhỏ (ban hành năm
1952) hợp thức hóa và thúc đẩy SMEs liên kết, hợp tác với nhau; Quỹ tín dụng
trung tiểu xí nghiệp (1953) và Quỹ bảo hiểm tín dụng cho SMEs (1958) và chính
sách của Ngân hàng phát triển giúp SMEs vay vốn dễ dàng. Về khó khăn thứ ba, Tổng
cục Trung tiểu xí nghiệp trong Bộ Công Thương thường xuyên thu thập thông tin về
thị trường, công nghệ trong và ngoài nước, phân tích hướng đi của kinh tế và
các vấn đề SMEs đang trực diện, và công bố rộng rãi các kết quả phân tích.
Trong các sách trắng phát hành hằng năm của chính phủ (như sẽ nói ở điểm thứ
tám dưới đây), Sách trắng về SMEs được đọc nhiều nhất trong suốt thời gian dài.
Chính sách, cơ chế được thực thi nghiêm túc, hầu như không thấy SMEs than phiền
về thủ tục hành chánh. Xem cơ cấu nguồn cung cấp vốn cho SMEs năm 1957 ta ngạc
nhiên thấy cả những doanh nghiệp siêu nhỏ (công nhân viên dưới 10 người), có tới
75% vốn vay của họ là từ ngân hàng (nhà nước và tư nhân), vốn phi chính thức (tự
có hoặc vay mượn từ gia đình, bè bạn) chỉ có 25%!
Thứ bảy, Nhật Bản tiếp nối
tinh thần học tập nước ngoài, không cần triển khai quy mô như thời Minh Trị
canh tân đất nước, nhưng vẫn phát huy lợi thế của nước đi sau qua tích cực du nhập
công nghệ và qua các kênh học tập, tham khảo việc quản trị nhà nước, quản trị
doanh nghiệp. Từ năm 1955 đến 1973, số vụ nhập công nghệ tăng 13 lần, số tiền
chi cho hợp đồng công nghệ nước ngoài tăng 35 lần. Chính sách của nhà nước là định
hướng thúc đẩy du nhập công nghệ vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh động (lợi
thế tiềm năng, sẽ được hiện thực hóa trong tương lai dưới một số điều kiện về
chiến lược, chính sách). Bộ Công Thương dựa trên lợi thế so sánh động để định
hướng các công nghệ cần du nhập. Song song với việc du nhập công nghệ từ nước
ngoài, Nhật Bản tích cực đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D). Trong
hoạt động R & D, chính phủ đóng vai trò nghiên cứu cơ bản, doanh nghiệp chủ
yếu nghiên cứu ứng dụng. Việc du nhập công nghệ có chọn lựa là cốt lõi của hiện
tượng đầu tư nhộn nhịp, thay đổi thiết bị và xây dựng cơ sở sản xuất mới, đưa đến
năng suất cao, cung cấp nhiều sản phẩm mới trên thị trường trong nước và thế giới,
những yếu tố đưa đến giai đoạn phát triển thần kỳ.
Việc học tập nước ngoài còn được thực hiện qua
việc gửi quan chức đi du học (thường là hai năm) để tiếp thu kiến thức mới về
quản lý xã hội, quản lý nhà nước và bồi dưỡng khả năng phân tích tình hình thế
giới. Doanh nghiệp lớn cũng gửi nhân viên đi du học và lãnh đạo doanh nghiệp
cũng thường đi tham quan nước ngoài để khảo sát việc cải tiến chất lượng.
Matsushita Konosuke, người sáng lập công ty điện tử gia dụng mà bây giờ có tên
là Panasonic, và là người được gọi là hai chuyến đi khảo sát Mỹ và Tây Âu năm
1951 đã mở ra một giai đoạn mới trong phát triển của công ty. Chuyến đi đầu
tiên sang Mỹ dự định một tháng nhưng đã kéo dài 3 tháng, tiếp cận với văn minh
điện/điện tử, thấy được thị trường và công nghệ của ngành công nghiệp sẽ làm
thay đổi Nhật Bản.
Thứ tám, trừ những thông tin thuộc
cơ mật quốc gia, nhà nước Nhật Bản tích cực quảng bá thông tin đến doanh nghiệp
và dân chúng. Các bộ trong chính phủ
hằng năm phân tích tình hình lãnh vực mình phụ trách, soạn thành sách trắng
(white paper), hoặc soạn các bản báo cáo kết quả thảo luận trong Hội đồng tư vấn
(shingikai) hay Hội trao đổi ý kiến (kondankai) thuộc bộ mình,
các báo cáo kết quả nghiên cứu những vẫn đề đột xuất, hoặc soạn các tư liệu
liên quan chính sách mới, v.v.. Các tư liệu nầy để ở thư viện các bộ, ai cũng
có thể đến xem hoặc mua, và tập trung bày bán ở các trung tâm dịch vụ phẩm vật
phát hành của chính phủ. Riêng các sách trắng có số lượng độc giả đông được bày
bán trong các nhà sách lớn và các đại học. Tiếp cận dễ dàng đến các thông tin
phong phú của chính phủ giúp doanh nghiệp và người dân tiết kiệm thì giờ và phí
tổn.
Thứ chín, nối tiếp chủ
trương từ thời Minh Trị là muốn theo kịp Tây phương trước hết phải rút ngắn khoảng
cách về giáo dục, đào tạo, nhưng tiến từng bước vững chắc theo sát nhu cầu công
nghiệp hóa. Cơ cấu giáo dục là hình tháp, từ tiểu học lên đại học và
sau đại học, phải được củng cố vững chắc từ dưới lên. Khi bắt đầu giai đoạn
phát triển thần kỳ, thực hiện triệt để phổ cập giáo dục cơ bản và cưỡng bách 9
năm (tiểu học và trung học cơ sở), trong đó mọi người trong độ tuổi đều được học
miễn phí hoàn toàn. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh phổ cập các bậc học cao hơn. Chẳng
hạn tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cấp II vào đại học tăng từ 10% năm 1955 lên 38%
năm 1975. Một số đặc trưng đáng chú ý khác là Nhật chú trọng đào tạo nghề, đào
tạo kỹ sư trung cấp song song với tăng cường bậc đại học. Ở Cấp III, ngoài
chương trình trung học phổ thông còn chú trọng đào tạo chuyên khoa Cấp III với
số học sinh lên tới 2/3 học sinh phổ thông. Ngoài ra còn có chương cao đẳng
chuyên nghiệp (kosen) gồm 3 năm cấp III và 2 năm tiếp theo, và đại
học đoản kỳ 2 năm (một năm học văn hóa, một năm chuyên môn). Với chuyên khoa cấp
III 3 năm, kosen 5 năm, và đại học đoản kỳ 2 năm sau Cấp III,
học sinh khi ra trường trở thành lực lượng lao động đông đảo và chất lượng cao,
cung cấp kịp thời cho công nghiệp hóa.
Một điểm quan trọng nữa là Bộ văn hóa Giáo dục
luôn theo sát chiến lược công nghiệp hóa để điều chỉnh số sinh viên các khoa ở
đại học. Vào năm 1955, năm bắt đầu giai đoạn phát triển thần kỳ, Bộ Văn hóa
Giáo dục bắt đầu lo là Nhật sẽ thiếu hụt nguồn nhân lực là kỹ sư (engineers) và
chuyên viên nghiên cứu khoa học tự nhiên (scientists). Họ ước tính vào năm 1962
nhu cầu nguồn nhân lực nầy sẽ lên tới 27,500 nhưng vào thời điểm 1957 chỉ có độ
19,500 người. Tháng 11/1957 Bộ đưa ra kế hoạch tăng thêm 8.000 kỹ sư trong vòng
5 năm, nhưng với tinh thần khẩn trương thực hiện chỉ 3 năm sau (1960) đã đạt được
mục tiêu. Sau đó, trong thập niên 1960, chính phủ cho thành lập nhiều khoa về
công nghệ, kỹ thuật trong các đại học, hoặc mở rộng, tăng thêm sinh viên các
khoa đã có trong lĩnh vực ấy.
Thứ mười, những đặc trưng
của nhà nước kiến tạo và phát triển của Nhật như toàn dụng lao động, chú trọng
doanh nghiệp nhỏ và vừa, bình đẳng trong tiếp cận thông tin, triệt để thực hiện
giáo dục cơ sở, cưỡng bách, v.v.. tất yếu mang lại sự công bằng xã hội và sự
phân phối thu nhập nhìn chung là bình đẳng. Nhiều nghiên cứu cho thấy
hệ số Gini (chỉ mức độ bình đẳng trong thu nhập) có khuynh hướng giảm, và phần
chia của lao động (labor share) trong tổng thu nhập quốc dân có khuynh hướng
tăng trong suốt giai đoạn phát triển thần kỳ. Cải cách thuế theo hướng tăng thuế
lũy tiến, thuế thừa kế tài sản cũng làm cho phân phối thu nhập bình đẳng. Về tuổi
thọ trung bình không có sự khác biệt giữa các giai tầng xã hội cũng là biểu hiện
của sự bình đẳng.
Năng lực xã hội và
tinh thần dân tộc
Theo tôi, cùng với nhà nước kiến tạo phát triển,
năng lực xã hội (social capability) cũng là từ khóa giải thích thành công của
Nhật. Hai khái niệm này có liên quan mật thiết với nhau. Năng lực xã hội là
năng lực và tố chất của những nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị
gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố
cấu thành phải có những tố chất để thúc đẩy kinh tế phát triển. Tố chất quan trọng
của chính trị gia là năng lực lãnh đạo, tầm nhìn đại cuộc và năng lực quy tụ
nhân tài, khả năng hình thành sự đồng thuận (consensus) cao của toàn dân, nhất
là ý thức trách nhiệm cao trong việc tạo cơ chế, điều kiện để khơi dậy các tiềm
năng của đất nước, trong đó có phương châm trọng dụng nhân tài. Tố chất cần thiết
của quan chức là năng lực quản lý hành chánh, tinh thần trách nhiệm, tác phong
đạo đức của người công bộc, chí công vô tư. Tố chất của giới kinh doanh là tinh
thần doanh nghiệp (entrepreneurship) và ý thức trách nhiệm xã hội. Trong tinh
thần doanh nghiệp có tinh thần mạo hiểm, nỗ lực khám phá thị truờng mới, nguyên
liệu mới, công nghệ và phương thức quản lý mới.
Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, không phải chỉ
có các tố chất đó. Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của chính trị gia, của
quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và
phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Đặc biệt trong thời đại Minh Trị
và thời kỳ phục hưng và phát triển hậu chiến, những tố chất đó biểu hiện mạnh mẽ
nhất.
Tố chất đòi hỏi ở trí thức là trách nhiệm với
xã hội, với đất nước, quan tâm cao độ vào các vấn đề hiện thực của kinh tế, xã
hội, văn hóa và nỗ lực nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp góp phần cải thiện xã
hội và làm cho kinh tế phát triển. Tố chất cần thiết của giới lao động là trình
độ giáo dục ngày càng cao, kỹ năng, năng lực chuyên môn ngày càng được bồi dưỡng
và sự hăng say làm việc với tinh thần trách nhiệm.
Từ những phân tích ở phần trước ta đã thấy các
tố chất của chính trị gia, quan chức và doanh nghiệp Nhật Bản, và đã thấy trí
thức đóng vai trò vào việc hình thành chiến lược, chính sách cũng như trình độ
giáo dục, tính chuyên nghiệp của lao động qua việc phân tích chế độ giáo dục
đào tạo. Ở đây cần nhấn mạnh thêm mấy điểm sau.
Thứ nhất, Nhật Bản đã có các cơ thế
để các thành phần trong xã hội gắn kết thành một khối, tạo thành năng lực xã hội
vững mạnh. Trí thức được tự do phát biểu ý tưởng về con đường phát triển đất nước
và lãnh đạo chính trị thường xuyên quan tâm đến những ý tưởng đó. Ikeda Hayato
nếu không quan tâm đến trí thức thì không phát hiện được ý kiến của giáo sư
Nakayama Ichiro trên báo và sẽ không thai nghén được kế hoạch bội tăng thu nhập
quốc dân. Chế độ lập các hội đồng tư vấn, thẩm nghị (shingikai) hoặc hội
trao đổi ý kiến (kondankai) là kênh quy tụ trí tuệ của trí thức,
doanh nhân, và các tầng lớp khác trong xã hội, thúc đẩy mọi người tham gia vào
việc nước.
Thứ hai, vốn con người, xã hội học
tập, trọng tri thức là nền tảng quan trọng để phát triển bền vững, tăng năng lực
xã hội. Vấn đề nầy ai cũng dễ nhận biết nhưng không phải nước nào cũng thực hiện
được. Ngoài chế độ giáo dục chính quy như đã đề cập, Nhật Bản tích cực dịch
sách nước ngoài, nhanh chóng và nghiêm túc. Sách khoa học, sách giáo dưỡng
(liberal arts), sách về các vấn đề thời sự, v.v.. được in khổ nhỏ, giá rẻ dễ phổ
cập đến đại chúng. Các nhật báo điểm các sách hay trong số phát hành cuối tuần
giúp độc giả có các thông tin về sách quan trọng vừa phát hành. Ngoài ra quan
chức tham quan nước ngoài về đều viết báo cáo chia sẻ kiến văn với mọi người
liên quan trong cơ quan. Nhân viên trong doanh nghiệp đi tham quan nước ngoài
cũng làm như vậy đối với công ty mình. Nhưng xã hội không chạy theo bằng cấp,
quan chức và lãnh đạo doanh nghiệp của Nhật hầu như không ai có bằng tiến sĩ, nếu
có là do ngẫu nhiên và ngoại lệ. Đào tạo tiến sĩ chỉ để nghiên cứu và dạy đại học.
Thứ ba, đạo đức, lòng tự trọng,
tính hướng thượng được chú trọng trong giáo dục và được bồi dưỡng qua sách vở,
qua các gương sáng của lãnh đạo các giới. Một số tờ báo lớn và nhà xuất bản thường
biên tập, phát hành hồi ký về con đường học tập, cuộc đời hoạt động của những
người thành công trong các giới, trong đó nghệ thuật đối nhân xử thế, năng lực
giải quyết các tình huống khó khăn, v.v. đươc truyền lại cho giới trẻ. Văn hóa,
xã hội Nhật không tương thích với hiện tượng “lương khủng”, người thắng được tất
cả (the winner takes all). Những nhà kinh doanh lỗi lạc, những hiệu trưởng tài
ba có công làm cho công ty hay đại học phát triển vượt bậc nhưng họ chỉ nhận mức
lương và tiền thưởng định kỳ vừa phải. Thay vào đó được tổ chức và xã hội tôn
vinh.
Thứ tư, năng lực xã hội được củng
cố khi mọi cơ hội đều bình đẳng. Mọi người đều có kỳ vọng cuộc sống sẽ tốt đẹp
hơn nếu họ nỗ lực học tập, nỗ lực nâng cao kỹ năng, năng lực chuyên môn. Thành
phần xã hội không cố định, không có hiện tượng “con vua thì lại làm vua”, mà ai
cũng có cơ hội tiến thân, sự lưu động xã hội (social mobility) càng cao năng lực
xã hội càng lớn. Rất nhiều người xuất thân từ gia đình nông dân, công nhân
nhưng đã vươn lên vị trí lãnh đạo các giới.
Nhà
nước kiến tạo phát triển và năng lực xã hội đã làm
nên thời đại phát triển thần kỳ, đưa đưa nước Nhật lên ngang hàng với các nước
tiên tiến Âu Mỹ./.
.
.
.
No comments:
Post a Comment