Các nhà độc tài học gì từ
Gorbachev?
Hiếu Chân/Người Việt
September
2, 2022
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/cac-nha-doc-tai-hoc-gi-tu-gorbachev/
Mikhail
Gorbachev, người đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của Liên Xô và chấm dứt cuộc
Chiến Tranh Lạnh, vừa qua đời hôm Thứ Ba, 30 Tháng Tám, hưởng đại thọ 91 tuổi.
Sự nghiệp gây tranh cãi của ông để lại nhiều bài học cho các nhà lãnh đạo sau
ông như Vladimir Putin ở Nga, Tập Cận Bình ở Trung Quốc, và nhiều người khác
trên thế giới.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/09/BL-Bai-Hoc-Gorbachev-1068x726.jpg
Ông Tổng Bí Thư Mikhail Gorbatchev (trái) của
Liên Xô và Tổng Thống Ronald Reagan (giữa) của Mỹ ký hiệp ước loại bỏ hỏa tiễn
nguyên tử tầm xa tại cuộc họp thượng đỉnh ở Washington, DC, Hoa Kỳ, ngày 8
Tháng Mười Hai, 1987. (Hình: AFP via Getty Images)
Ông
Gorbachev là tổng bí thư cuối cùng của đảng Cộng Sản Liên Xô, lên nhậm chức vào
năm 1985, giữa lúc Liên Xô bị tụt hậu về mọi mặt so với phương Tây. Để thổi luồng
sinh khí mới vào nền kinh tế và xã hội trì trệ của Liên Xô, ông đề xướng các
chương trình “perestroika” (cải cách) và “glasnost” (cởi mở). “Perestroika”
thay đổi đường lối kinh tế kế hoạch hóa do nhà nước tập trung kiểm soát bằng một
hình thức kinh tế thị trường. “Glasnost” thực hiện cải tổ hệ thống chính trị và
nới lỏng các quyền tự do dân sự, làm ấm quan hệ với phương Tây.
Hai chương
trình cải cách của ông làm cho người Nga và các dân tộc trong Liên Xô thức tỉnh
và nhận ra tình trạng bi thảm của họ. Chính ông Gorbachev than thở mặc dù Liên
Xô may mắn được ưu đãi với các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào như dầu và
khí đốt nhưng quốc gia này “ngày càng tụt hậu so với các quốc gia phát triển.”
“Lý do đã
được nhìn thấy rõ ràng – xã hội đang ngột ngạt trong sự kìm kẹp của một hệ thống
quan liêu bao cấp. Tất cả những nỗ lực cải cách từng phần – và có rất nhiều nỗ
lực như vậy – đã lần lượt thất bại. Đất nước đang mất dần phương hướng. Không
thể sống tiếp như vậy được,” ông nói với quốc dân trong bài phát biểu trên truyền
hình tối 26 Tháng Mười Hai, 1991.
Vì không
thể sống tiếp như vậy, các nước Cộng Hòa bị Nga sáp nhập sau Thế Chiến II quyết
định đứng lên “giành độc lập” và thế là Liên Xô tan rã. Tại Liên Bang Nga, các
thế lực trong đảng Cộng Sản, được hưởng lợi từ hệ thống đặc quyền và bè phái,
đã thực hiện cuộc đảo chính chống lại ông Gorbachev. Nỗ lực đảo chính thất bại
nhưng làm suy yếu đáng kể vị thế của ông, mở đường cho một giai đoạn hỗn loạn cả
về kinh tế và chính trị, dẫn tới sự trỗi dậy của phong trào chính trị mị dân và
chuyên chế mà đại diện là Vladimir Putin.
Người Nga
đổ lỗi cho ông Gorbachev, gọi ông là kẻ phản bội chủ nghĩa Cộng Sản, là người
gây ra “thảm họa địa chính trị trầm trọng nhất của thế kỷ 20” như lời ông
Putin. Thậm chí những kẻ cực đoan còn đưa ra thuyết âm mưu nói rằng ông
Gorbachev là “điệp viên của phương Tây,” phá hoại chế độ Xô Viết từ bên trong.
Thực ra,
ông Gorbachev không hề có ý định xóa bỏ chế độ Cộng Sản, ông chỉ muốn cải tổ để
nó nhân bản hơn, tạo ra một thứ chủ nghĩa Cộng Sản mang bộ mặt người, và tin đó
là điều tốt.
“Tôi không
né tránh trách nhiệm với những cải cách tôi đã khởi xướng, bởi vì tôi tin tưởng
sâu sắc rằng chúng rất quan trọng và cuối cùng sẽ mang lại hạnh phúc cho tổ quốc
của tôi và có lợi cho thế giới,” ông Gorbachev viết trong cuốn sách xuất bản
năm 1995, sau khi ông bị đẩy khỏi chính trường nước Nga. Thủy chung, ông Gorbachev vẫn là
một người Cộng Sản, cuộc cải tổ của ông chỉ là để cứu đảng, cứu chế độ Xô Viết.
Nhưng cộng sản là thứ chỉ có thể xóa bỏ chứ không
sửa đổi được.
Những cải
cách nửa vời của ông Gorbachev chẳng những không cứu được Liên Xô mà còn làm
cho ông thân bại danh liệt. Nhà khoa học
chính trị Mark Urnov làm việc tại Quỹ Gorbachev, nhận định: “Vấn đề thực sự
là ở chỗ, ông ấy [Gorbachev] đã cố gắng mang lại tự do xã hội cho một cộng đồng
không biết cách sử dụng tự do. Trong nhiều thế hệ, chúng tôi đã sống dưới một
chế độ toàn trị rất cứng rắn. Chúng tôi bị tước đoạt mọi quyền tự do cá nhân
căn bản. Để vượt qua loại di sản như vậy, cần ba hoặc bốn thế hệ,” theo trích dẫn trên nhật báo The Wall Street
Journal. Ông Gorbachev đã không có đủ thời gian và sự ủng hộ để xây dựng những
định chế dân chủ nhằm bảo đảm và phát triển quyền tự do mà người dân Nga vừa được
hưởng.
***
Với các
nhà lãnh đạo chuyên chế sau ông, cuộc đời chính trị của ông Gorbachev là một
bài học cảnh giác: Dù thế nào cũng không buông lỏng quyền cai trị độc tôn của đảng
Cộng Sản.
Ông
Vladimir Putin cho rằng Liên Xô tan rã năm 1991 là “thảm họa địa chính trị” lớn
nhất thế kỷ 20. Ông Putin
kết án ông Gorbachev làm biến mất một đế chế Nga hùng mạnh đối cực với Phương
Tây và ông tự cho mình cái sứ mệnh khôi phục đế chế ấy. Các cuộc chiến
tranh xâm lược của Nga tại Georgia (tức Gruzia) trước đây và tại Ukraine hiện
nay là nhằm mục tiêu đó. Ông Putin không cho phép tổ chức quốc tang và cũng
không tham dự lễ tang nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô.
Cùng thời
với ông Gorbachev, lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cũng nhận ra sự tụt hậu
thê thảm của đất nước ông. Trí thức Trung Quốc mong muốn cải cách. Mùa Xuân
1989, sinh viên đại học tổ chức biểu tình nhiều ngày ở quảng trường Thiên An
Môn (Tiananmen), đòi dân chủ. Tháng Năm, 1989, ông Gorbachev đến Bắc Kinh mang
theo một luồng gió mới và được sinh viên tôn làm thần tượng, thế nhưng, sau khi
ông ra về, ông Đặng Tiểu Bình cho xe tăng tràn vào quảng trường, tàn sát người
biểu tình, làm hàng trăm hoặc hàng ngàn người trẻ bị giết.
Sự sụp đổ
nhanh chóng của khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô năm 1989 làm cho ông Đặng tính
bài mở cửa kinh tế để tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ phương Tây, nhưng vẫn
duy trì sự kiểm soát toàn diện của đảng Cộng Sản, đập tan mọi dấu hiệu phản
kháng, dù nhỏ. Họ Đặng và những người kế nhiệm ông kiên trì thực hiện phương
châm nổi tiếng của ông, đó là “làm giàu trước đã,” tạo ra một nước Trung Quốc
ngày càng giàu nhưng người dân không có các quyền tự do căn bản trong một xã hội
bị theo dõi và kiểm soát gắt gao.
Ông Tập Cận
Bình lên cầm quyền vào lúc Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới. Và cùng với vốn đầu tư, công nghệ, những lý tưởng dân chủ và tự do từ Âu
Mỹ cũng đổ vào Trung Quốc, xói mòn vị thế độc tôn của đảng Cộng Sản. Lo sợ tái
diễn một phong trào Thiên An Môn khác, hoặc một sự tan rã nhanh chóng kiểu Liên
Xô, ông Tập tập trung củng cố quyền lực của đảng, đàn áp khốc liệt những biểu
hiện phản kháng ở Hoa Lục, ở Hồng Kông, Tây Tạng, và Tân Cương – mà báo cáo nhân
quyền Liên Hiệp Quốc vừa công bố đánh giá là “tội ác chống loài người!”
Với những
nhà độc tài xuất thân từ đảng Cộng Sản như ông Tập và ông Putin, công cuộc cải
tổ của ông Gorbachev là “sách giáo khoa” về những điều phải tránh. Đó là đừng
bao giờ “cởi mở” về chính trị hay dung nạp những ý kiến khác, mà phải thẳng tay
trừng trị những phần tử mang tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền. Cả hai ông đều
ra sức cổ vũ cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan, kích động lòng thù hận phương Tây
làm nền tảng biện hộ cho chính sách đàn áp của họ.
Ở Việt
Nam, cuộc cải tổ của ông Gorbachev làm dấy lên trào lưu đổi mới dưới thời Tổng
Bí Thư Nguyễn Văn Linh. Văn nghệ sĩ được “cởi trói,” người kinh doanh được “xé
rào,” hết “ngăn sông cấm chợ,” nông dân được “khoán hộ”… Nhưng chỉ một thời
gian ngắn, kinh hoàng trước sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ Cộng Sản, ông Linh
quay ngoắt lại, đóng sầm cánh cửa đổi mới. Người cầm đầu trào lưu cải cách ở Việt
Nam, ông Trần Xuân Bách – “hạt mầm Gorbachev” – bị đuổi ra khỏi Bộ Chính Trị và
trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam vào Tháng Ba, 1990.
Cho
đến nay, cả Nga, Trung Quốc, và Việt Nam vẫn kiên trì thể chế độc tài toàn trị
mà chưa có dấu hiệu đổi mới chính trị, và có thể sẽ không bao giờ có. Vì lẽ các nhà độc tài cộng sản cho rằng,
cải tổ chính trị như ông Gorbachev là “tự sát,” là đi vào vết xe của đảng Cộng
Sản Liên Xô – đảng Cộng Sản đầu đàn nhưng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật từ năm
1991. [đ.d.]
No comments:
Post a Comment