Tại
sao việc Mỹ rút khỏi Afghanistan có thể tốt cho châu Á?
David
Hutt - Asia
Times
Phan Nguyên, biên
dịch
20/08/2021
http://nghiencuuquocte.org/2021/08/20/tai-sao-viec-my-rut-khoi-afghanistan-co-the-tot-cho-chau-a/
Thời gian sẽ trả lời việc Mỹ đột ngột từ bỏ
Afghanistan sau gần 20 năm cam kết có phải là một thời điểm mang tính quyết định
trong nhiệm kỳ tổng thống của Joe Biden hay không.
Nhưng trong khi các nhà phân tích và bình luận
cho rằng động thái này sẽ làm suy yếu nghiêm trọng uy tín của Mỹ trong ngắn hạn,
có lý do chính đáng để tin rằng nó sẽ không ảnh hưởng nhiều đến các mục tiêu
dài hạn và mối quan hệ của Washington ở các khu vực cốt lõi hơn đối với lợi ích
chiến lược của Mỹ, đặc biệt là ở Đông Nam Á , một chiến trường quan trọng trong
cuộc cạnh tranh ngày càng gia tăng với Trung Quốc.
Việc Mỹ rút khỏi Afghanistan ít khả năng sẽ
làm giảm mạnh uy tín của Mỹ ở Đông Nam Á, theo lời ông Lê Hồng Hiệp tại Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute) ở Singapore. Ông Hiệp nói
thêm: “Về lâu dài, Đông Nam Á rốt cuộc có thể được hưởng lợi từ việc Mỹ rút khỏi
Afghanistan”.
Đó chắc chắn sẽ là thông điệp mà Phó Tổng thống
Hoa Kỳ Kamala Harris mang theo khi đến thăm Việt Nam và Singapore, hai đối tác
quan trọng của Hoa Kỳ, vào cuối tháng này. Hầu hết các chính phủ Đông Nam Á cho
đến nay vẫn chưa công khai bày tỏ quan điểm về biến cố Afghanistan của Mỹ.
Khi Biden khẳng định chính quyền của ông sẽ giữ
nguyên chính sách rút lui khỏi Afghanistan của chính quyền Trump vào đầu năm
nay, phát ngôn viên chính phủ Campuchia, Phay Siphan, hồi tháng 7 nói rằng: “cần
có một giải pháp hòa bình hơn là từ bỏ [Afghanistan hoàn toàn], bởi vì
Afghanistan sẽ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề an ninh.”
Một số nhà lãnh đạo khu vực trước đó đã đặt
câu hỏi về mục đích can thiệp của Mỹ. Lý Quang Diệu, “người cha sáng lập” và cố
thủ tướng của Singapore, đã nhận xét trong một cuộc phỏng vấn năm 2009:
“Không có nhà nước nào tồn tại ở đó trong 30,
40 năm qua. [Người Afghanistan] chỉ lo xung đột lẫn nhau kể từ khi vị vua cuối
cùng của họ bị phế truất, đúng không? Làm thế nào bạn có thể chắp ghép những mảnh
vụn này lại với nhau? Điều đó là không thể.”
Cách đây vài năm, Tổng thống Indonesia, Joko
Widodo, đã gợi ý chính phủ của ông có thể cố gắng đóng vai trò trung gian cho
các cuộc đàm phán hòa bình giữa chính phủ Afghanistan và Taliban, mặc dù mục
tiêu này đã thất bại khi Taliban từ chối xuất hiện.
Nhưng khi Taliban tiến quân nhanh, và xuất hiện
các cảnh tượng gây sốc do công dân nước ngoài và người dân Afghanistan tranh
nhau tháo chạy, các chính phủ Đông Nam Á đã buộc phải sơ tán hầu hết các nhà
ngoại giao và công dân của họ khỏi Afghanistan vào cuối tuần qua.
Indonesia hiện đã sơ tán hầu hết các nhân viên
ngoại giao của mình khỏi Kabul. Hôm thứ Hai, Bộ Ngoại giao Indonesia cho biết,
họ sẽ chỉ để một vài nhân viên nòng cốt ở lại, mặc dù họ cũng có thể được sơ
tán tùy vào tình hình an ninh.
Hàng chục người Philippines đã được chuyển từ
Afghanistan đến Doha gần đó trước khi hồi hương, trong khi Manila cho biết họ sẵn
sàng tiếp nhận người tị nạn từ Afghanistan. Việt Nam cũng đã rút công dân về nước.
Việc
Taliban quay lại nắm quyền đặt ra những lo ngại về an ninh cho toàn bộ khu vực. Tuần này, tờ Straits Times dẫn lời một quan chức tại Cục An
ninh Nội địa Singapore, nói rằng sự trở lại của Taliban có thể dẫn đến việc
“gia tăng các hoạt động liên quan đến khủng bố ở Đông Nam Á”.
Các quan chức an ninh Indonesia cũng lo ngại rằng,
chiến thắng của Taliban có thể truyền cảm hứng cho các hoạt động mới của Nhà nước
Hồi giáo, cũng như các chiến binh của Al-Qaeda ở Đông Nam Á, bao gồm cả Jemaah
Islamiyah.
Phản ứng nhất thời của nhiều chuyên gia là
đánh đồng cuộc khủng hoảng hiện tại, vốn có khả năng đưa Afghanistan quay lại chế độ chuyên chế và sự
tàn bạo tôn giáo, là thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong
nhiều thập niên.
Những người khác lại suy đoán rằng uy tín của
Mỹ sẽ phải mất thời gian để phục hồi, và việc nước này rút khỏi Afghanistan sẽ
khiến các đối thủ Trung Quốc và Nga mạnh dạn hơn.
Thật vậy, các nhà tuyên truyền của Trung Quốc
và Nga đã tuyên bố rằng, việc Mỹ rút lui khỏi Afghanistan khiến các đồng minh
tiềm năng khác của Mỹ, chẳng hạn như Philippines và Đài Loan, nhận thấy sự bảo
vệ của Mỹ là không đáng tin cậy.
Nhưng việc Mỹ chấm dứt sự can thiệp trực tiếp
và kéo dài ở Afghanistan có thể đồng nghĩa với việc gia tăng cam kết đối với
các khu vực khác.
Tất nhiên, điều này không mấy vui vẻ đối với
người Afghanistan, những người đã tin tưởng vào lời hứa của Washington về việc
xây dựng một nền dân chủ tự do.
“Trong ngắn hạn, những người thường chỉ trích
Mỹ sẽ công khai cổ vũ các sự kiện gần đây, và nhiều người đã làm như vậy,”
Bradley Murg, nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Hợp tác và Hòa bình Campuchia,
cho biết.
Một bài xã luận được xuất bản trong tuần này
trên Fresh News, một cơ quan ngôn luận của chính phủ Campuchia, một đồng
minh thân cận của Trung Quốc, cho rằng cuộc khủng hoảng ở Afghanistan đã phơi
bày sự thất bại của Mỹ trong việc truyền bá dân chủ và nhân quyền ra quốc tế.
Nó cũng đặt câu hỏi tại sao các nhóm nhân quyền
quốc tế thường xuyên chỉ trích chính phủ chuyên chế của Campuchia vẫn chưa lên
tiếng chỉ trích Mỹ về những hành động của họ ở Afghanistan.
Nhưng khi lớp bụi lắng xuống, việc rút lui khỏi
Afghanistan là cần thiết, và sẽ tạo cơ hội cho Hoa Kỳ tập trung mạnh mẽ hơn vào
việc duy trì vị thế của mình trong tương lai ở Đông Nam Á, cũng như Ấn Độ Dương
– Thái Bình Dương nói chung.
Trên phương diện nào đó, việc Mỹ rút quân khỏi
Afghanistan cũng là đỉnh điểm của việc Washington chuyển hướng sự chú ý khỏi
khu vực Trung Đông, vốn lần đầu tiên được định hình vào đầu những năm 2010, khi
chính quyền Barack Obama lần đầu tiên đưa ra chính sách “xoay trục” sang châu Á
vào năm 2011.
Những người hoài nghi khẳng định vào thời điểm
đó rằng, đây là một phản ứng bắt buộc sau những gì đã diễn ra; Mỹ đang thay đổi
chính sách của mình để che giấu sự thất bại của họ ở Trung Đông, điều đã trở
nên rõ ràng ngay cả vào đầu những năm 2010.
Nhưng chính quyền Obama, và sau đó là Trump,
đã tăng cường đáng kể sự chú ý của họ đối với khu vực, mà sau này được gọi là “Ấn
Độ Dương – Thái Bình Dương”.
Trong số ít các quan chức chính phủ Đông Nam Á
đã công khai nói về việc Mỹ rút khỏi Afghanistan tác động như thế nào đến sức mạnh
của Mỹ trong khu vực, hầu hết đều nhấn mạnh rằng không có gì thực sự thay đổi.
Bộ trưởng Ngoại giao Philippines, Teodoro
Locsin Jr, đã hoạt động tích cực trên Twitter để bảo vệ hành động của Biden, và
ca ngợi mối quan hệ song phương của Philippines với Mỹ, bao gồm cả việc Manila
vừa khôi phục Thỏa thuận các Lực lượng Viếng thăm gần đây, cho phép Mỹ luân
chuyển quân và thiết bị trên đất Philippines.
“Đôi khi Mỹ muốn rút khỏi sân khấu thế giới;
nhưng chỉ là nhất thời; đừng thúc ép họ, chứ đừng nói đến việc đẩy họ ra khỏi
sân khấu,” ông viết trên Twitter hôm thứ Tư.
Sự can thiệp của Mỹ ở Trung Đông từ lâu đã là
nguồn cơn gây tranh cãi ở Brunei, Indonesia và Malaysia, nơi có đa số dân số là
người Hồi giáo, và việc nước này rút khỏi Afghanistan có thể loại bỏ một điểm
gây tranh cãi ngoại giao. Uy tín của Mỹ ở Indonesia và Malaysia đã giảm xuống mức
thấp nhất lịch sử ngay sau cuộc can thiệp vào Afghanistan năm 2001.
Biden đã tìm cách bảo vệ quyết định rút toàn bộ
quân đội Mỹ của mình, thông qua việc ông nhấn mạnh rằng nước Mỹ không thể tiến
hành cái gọi là “các cuộc chiến tranh không hồi kết”. Mặc dù điều này đã bị nhiều
người chỉ trích là phi logic, vì quân đội Hoa Kỳ đã đóng quân ở Hàn Quốc từ những
năm 1950, và ở châu Âu từ những năm 1940, logic này vẫn phù hợp với tinh thần của
ASEAN là không can thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên khác.
Một bài xã luận trên tờ Jakarta Post kết
luận rằng: “Một bài học mà chúng ta có thể học được từ Afghanistan, là cho dù một
quốc gia có vai trò chiến lược đến đâu thì cuối cùng, quốc gia đó cũng phải đứng
vững trên đôi chân của mình… Chúng ta cảm thấy rất buồn cho người dân
Afghanistan. Nhưng như Biden đã nói, người dân Afghanistan phải quyết định
tương lai của đất nước họ”.
Ở một cấp độ cơ bản hơn, sẽ là không phù hợp
khi cho rằng, sự thất bại của chính sách ở Trung Đông sẽ ảnh hưởng nhiều đến
các hành động của Hoa Kỳ tại các khu vực khác trên thế giới.
Ngoại trừ trường hợp Myanmar, nơi dù sao
Washington đã rất ít can dự kể từ sau cuộc đảo chính quân sự hồi tháng Hai, chính sách của Mỹ ở Đông Nam Á
không tập trung vào việc thay đổi chế độ hay xây dựng chế độ.
Washington không có ý định thay đổi các chế độ
cộng sản của Lào và Việt Nam, và hiện Mỹ đưa các quan chức Cộng sản Việt Nam
vào danh sách các đồng minh nhiệt thành nhất của họ ở châu Á.
Washington cũng không nỗ lực nhiều trong việc
đẩy lùi sự quay lại của chủ nghĩa chuyên chế ở Thái Lan và Campuchia.
Thay
vào đó, các chính sách an ninh của Mỹ trong khu vực mang tính truyền thống hơn,
được thiết kế để hỗ trợ chủ quyền quốc gia, đảm bảo lòng tin của các đối tác,
và chống lại tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Ngoài ra, các khu vực có thể xảy ra xung đột ở
Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chẳng hạn như tranh chấp Biển Đông và việc Bắc
Kinh đe dọa xâm lược Đài Loan, cũng không giống với sự can thiệp của Hoa Kỳ vào
Trung Đông.
Bảo vệ những nước như Philippines và Việt Nam
trong tranh chấp Biển Đông, cũng như bảo vệ Đài Loan trước một cuộc xâm lược trực
tiếp của Trung Quốc, sẽ giống với những cuộc chiến tranh quy ước, chứ không giống
với cuộc xung đột bất đối xứng chống lại các du kích Hồi giáo ở Afghanistan.
Hơn
nữa, hoạt động của Mỹ ở Trung Đông thường tập trung vào việc cố gắng vực dậy
các nền kinh tế ở những đất nước nghèo khó và không thể quản lý, một nhiệm vụ gần như bất khả thi nếu tiến hành chỉ trong vài thập
niên.
Trong khi đó, ở Đông Nam Á, thử thách của Mỹ
là làm thế nào để can dự tốt hơn với một số nền kinh tế đang phát triển nhanh
nhất thế giới, đồng thời giúp họ giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.
Ngoài ra, cũng có thể cho rằng, các lợi ích an ninh của Mỹ ở châu Á mang tính
quốc tế cao hơn nhiều, nếu so với những nỗ lực xây dựng nhà nước mà nhiều người
coi là mang tính ý thức hệ ở Trung Đông.
Năm nay đã chứng kiến một số quốc gia châu Âu có ảnh hưởng, đặc biệt
là Đức, tham gia vào các chiến dịch “tự do hàng hải” ở Biển Đông, một biện pháp
nhằm bảo vệ luật pháp quốc tế trước các tuyên bố đòi thống trị các khu vực biển
đang tranh chấp của Bắc Kinh.
Tham vọng của Mỹ trong khu vực cũng phù hợp với
nguyện vọng của Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, cũng như các đồng minh quan trọng
khác. Chưa bao giờ có một sự đồng thuận quốc tế tương tự như vậy về các mục
tiêu của Mỹ ở Trung Đông, điều này cản trở các chính sách và thành công của Mỹ ở
đó.
Nhiều người đã so sánh những cảnh bi thảm ở
Kabul trong tuần này với sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, nhưng sự can dự của Mỹ
ở nước ngoài không chấm dứt cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam. Hoàn
toàn ngược lại.
Năm 1976, Mỹ bắt đầu tiến hành các hoạt động
bí mật ở Angola, và đến đầu những năm 1980, họ đã đổi trọng tâm chống chủ nghĩa
cộng sản ở Đông Nam Á sang chống lại mối đe dọa cộng sản, dù là có thật hay
trong tưởng tượng, ở Trung Mỹ và Ca-ri-bê.
Nếu lịch sử cho chúng ta thấy một điều nào đó, thì
đó là việc Mỹ rút quân ở một khu vực này thường đồng nghĩa với một sự can dự thậm
chí còn lớn hơn ở một khu vực khác.
-------------------------
Nguồn:
David Hutt, “Afghan
retreat enables full US ‘pivot’ to Asia”, Asia Times, 19/08/2021.
No comments:
Post a Comment