Graham
Allison
DCVOnline biên dịch
Posted on July 15, 2020
Tổng
thống rời nhiệm sở. Sa Hoàng mãi mãi là vua.
Trong những điều kiện
này, hy vọng tốt nhất cho nước Mỹ để thoát khỏi tình trạng khó xử của Sa Hoàng
là bầu quyết liệt cho một ứng cử viên đắc cử một cách bất khả tranh biện.
Bạch Cung.
Washington D,C., USA. Getty/The atlantic
Tổng thống Mỹ thường rời
nhiệm sở khi cử tri không bầu cho họ nữa. Sa Hoàng, hoàng đế, và những thủ tướng
muốn cai trị cả đời sẽ làm bất cứ điều gì có thể để nắm giữ quyền lực. Để kéo
dài sự cai trị của mình cho đến năm 2036, Tổng thống Nga Vladimir Putin gần đây
đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để sửa đổi hiến pháp của liên bang Nga.
Dù có một số người Nga công khai phản đối việcc làm này, nhưng có ít người
nghi ngờ về kết quả của nó. Hai năm trước, Chủ tịch Trung Hoa Tập Cận Bình đã
thành công trong việc xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch Nước — thiết lập sau cuộc
cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, một thời kỳ điên rồ về ý thức hệ đã giết
chết hàng chục triệu người, kể cả các thành viên gia đình của giai cấp thống
trị. Trong bài phát biểu năm 2017, Xi đã nêu các mục tiêu cụ thể để Trung Hoa đạt
được vào năm 2025, 2035 và 2049, đánh dấu một trăm năm thanh lập Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, ngụ ý rằng ông dự định lãnh đạo Trung Hoa cho đến ít nhất là năm
2035 (khi ông 82 tuổi).
Ngay cả trong các nền dân
chủ, hoàn cảnh đôi khi cũng cho phép các nhân vật lãnh đạo dù bị nhiều tai tiếng
vẫn có thể tại vị. Benjamin Netanyahu đã trở thành người ngồi ghế thủ tướng lâu
nhất trong lịch sử Israel, đã sống sót sau nhiều vụ bê bối. Ông ta hiện đang phải
đối phó với một bản cáo trạng về tội nhận hối lộ và gian lận do tổng chưởng lý
Israel đưa ra. Trong năm qua, mặc dù ông không thể giành được đa số ở Nghị viện
Israel trong ba cuộc bầu cử liên tiếp, Netanyahu đã thành công trong việc mặc cả
để giữ vị trí của mình cả ba lần. Hiện giờ là tháng thứ hai của một thỏa thuận
ba năm, với Bộ trưởng Quốc phòng Benny Gantz, cho phép ông giữ chức thủ tướng
trong 18 tháng, Netanyahu đã cam kết hoán đổi vai trò thủ tướng-bộ trưởng Quốc
phóng trong 18 tháng tiếp theo. Nhưng nhiều người tin rằng ông ta sẽ nuốt lời hứa
hoặc đàm phán lại những điều khoản đó, trước khi Gantz làm thủ tướng.
Putin, Trump, Xi Jinping. Nguồn:
CNN/com
Nói tóm lại, ba nhân vật
lãnh đạo mà Donald Trump ca ngợi đã kéo dài nhiệm kỳ tại chức. Trong tình trạng
này, Trump có thể làm gì? Không còn ngờ gì nữa, một cơn hoang tưởng là điều hiển
nhiên trong nhiều tuyên bố về sự lừa bịp có thể xẩy ra hiện đang trong vòng bàn
tán. Chưa hết, nỗi sợ rằng Trump có thể không rời nhiệm sở, bất kể chuyện gì xảy
ra vào tháng 11, đã trở thành dòng chính. Joe Biden, được cho là ứng cử viên đảng
Dân chủ đã nghĩ đến triển vọng “Tổng thống này sẽ cố đánh cắp cuộc bầu
cử 2020”, là “mối quan tâm lớn nhất của ông.”
Tất nhiên, Putin, Xi,
Netanyahu và Trump đều khác nhau về nhiều mặt. Nhưng mỗi người đều có lý do để
nắm giữ quyền lực của mình. Putin, Xi và Netanyahu thực sự có tham vọng lớn. Mỗi
người đều muốn mở rộng biên giới biên giới chính thức của họ — Nga muốn lấn vào
Ukraine, Israel muốn lấn sang khu vực Bờ Tây, Trung Hoa muốn tái nhập Hong Kong
và Đài Loan. Khẩu hiệu của Trump, hứa hẹn sẽ “Làm Mỹ Vĩ đại Trở lai”,
và nghĩ rằng điều này có thể gồm vả việc mở rộng lãnh thổ, đặc biệt là việc mua
Greenland, cũng đã nảy ra trong suy nghĩ của ông ta.
Lời giải thích rộng lượng
nhất cho lý do tại sao những người này có thể tin rằng thế giới này không thể
thiếu được họ là đây: Còn ai khác có thể tin được để đạt được những tham vọng của
họ? Câu hỏi hoài nghi hơn là: Nếu bất kỳ ai trong bốn người lãnh đạo này rời khỏi
chức vụ, ai có thể bảo đảm họ sẽ không bị bắt giam và làm nhục? Ai sẽ bảo đảm sự
giàu sang và hạnh phúc của gia đình và bạn bè của ông ấy?
Trong lịch sử, nhiều
nguyên thủ quốc gia đã bám chặt lấy quyền lực cho đến khi họ chết hoặc bị lật đổ.
Trong số 23 người cai trị Nga từ năm 1547 đến 1917, có bao nhiêu người tự nguyện
trao quyền lực cho người kế vị? Không ai cả. Mười lăm người chết vì nguyên nhân
tự nhiên, sáu người bị lật đổ và hai người bị ám sát. Trong bốn thế kỷ đó,
tương tự, ở Trung Hoa có tất cả 16 vị hoàng đế, nhưng chỉ một trong những triều
đại đó đã kết thúc một cách không tự nguyện: vì cái chết hoặc bị bắt buộc thoái
vị. Gọi nó là tình cảnh khó xử của Sa hoàng: Dù bị thách thức nguy nan đến đi nữa
khi bám giữ quyền lực, nhưng nguy cơ mất quyền thậm chí còn lớn hơn.
Cựu hoàng sau cùng
của nhà Thanh và chế độ phong kiến bị buộc phải thoái vị năm 1912. Hình chụp Phổ
Nghi năm 1946 như một nhân chứng tại Tòa án quân sự quốc tế về vùng Viễn Đông
(Vụ án Tokyo). Nguồn: https://adamcathcart.com/
Những người lập quốc Hoa
Kỳ đã nhận ra vấn đề nan giải này. Họ lập nên một nền cộng hòa, thay vì một chế
độ quân chủ, với một giám đốc điều hành được dân cử. Nhận thức sâu sắc về sự lạm
dụng của “George, vị vua điên”, họ đã viết ra một Hiến pháp mà học
giả tổng thống Richard Neustadt gọi là “những định chế độc lập phân quyền”.
Bằng cách phân chia quyền lực giữa tổng thống, quốc hội và các tòa án, và bằng
cách cấp cho họ những nguồn hợp pháp riêng biệt, họ đã tạo ra một hệ thống phức
tạp, trong đó mỗi bên có thể kiểm soát và cân bằng với những định chế khác.
Trong khi việc đó đã gây ra cuộc đấu tranh quyền lực liên tục khiến cho việc điều
hành quốc gia trở nên lộn xộn và thường không đẹp đẽ, mục đích của họ, như Thẩm
phán Louis Brandeis đã giải thích một cách nổi tiếng, là
“không phải để cổ súy hiệu quả mà là để ngăn chặn việc
tùy tiện lạm dụng quyền lực.”
Thẩm phán Louis
Brandeis
Tăng cường giới hạn hiến
pháp với quyền lực tổng thống là tiền lệ khôn ngoan mà George Washington đã thiết
lập khi ông từ chức sau hai nhiệm kỳ. Không ai phá vỡ truyền thống đó cho đến
khi Franklin D. Roosevelt, người được bầu bốn nhiệm kỳ trong cuộc Đại khủng hoảng
và Thế chiến II. Như một trong những đồng sự của ông châm biếm, cách duy nhất
ông ấy rời khỏi Bạch Cung là trong một chiếc quan tài. Và đó là cách mà ông đã
rời Tòa Bạch Ốc vào năm 1945. Trong vòng sáu năm sau khi ông qua đời, Quốc hội
đã thông qua và 3/4 tiểu bang đã phê chuẩn Tu chính án thứ hai mươi hai, hiện
nay giới hạn 2 nhiệm kỳ cho tổng thống.
Ngày 12 tháng 4 năm
1945 – Tổng thống Franklin D Roosevelt qua đời trong lúc tại chức. Nguồn:
The New York Times
Nhưng Tu chính án đó
không khóa chặt những con đường mà một tổng thống có thể tìm cách bám víu quyền
lực. Lawrence Douglas, tác giả cuốn “Will He Go? Trump and the Looming
Election Meltdown in 2020”, lập luận rằng hệ thống bầu cử hiện tại của Mỹ
có một khuyết điểm giống như “khuyết điểm của Chernobyl”: Không có gì trong Hiến
pháp hoặc luật liên bang bảo đảm việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình từ
một tổng thống đương nhiệm sang người kế nhiệm.
Tại sao một người được bầu
đứng đầu chính phủ phải chuyển giao quyền lực to lớn của tổng thống cho một đối
thủ mà ông tin rằng có thể là mối đe dọa cho quốc gia, cho cảnh mộng và ngay cả
cho chính bản thân mình? Chỉ vì một số người cho rằng đối thủ nhận được nhiều
phiếu hơn trong một cuộc bầu cử mà cả hai bên đều tố cáo có sự bất thường và lạm
dụng hay sao?
Trung tâm của sự chuyển
giao quyền lực dân chủ là một tiêu chuẩn của sự tôn trọng đối với tiến trình. Tất
cả các cuộc bầu cử có nhiều mâu thuẫn và sự khác thường. Nhưng các nền dân chủ
thành công đòi hỏi một có căn cứ chắc chắn về sự tôn trọng tính hợp pháp của
quy trình bầu cử — thực sự, sẵn sàng chấp nhận các kết quả lộn xộn, gây tranh
cãi và ngay cả kỳ quái. Tuy nhiên, khi tinh thần bè đảng độc hại đã lan rộng
vào mọi khía cạnh của chính phủ, các tuyên bố về việc đàn áp cử tri, bỏ phiếu bầu
cử gian lận và lạm dụng trong việc loại bỏ cử tri và kiểm phiếu đang xói mòn giả
định đó. Thật không may, quá trình mê cung giữa một cuộc bỏ phiếu của người dân
và kết quả của một cuộc bầu cử tổng thống mang lại nhiều cơ hội cho những người
nghi ngờ hoặc hoang tưởng cho rằng cuộc bầu cử đã bị gian lận hoặc kết quả là một
sự giả tạo.
Dù công dân trên toàn quốc
sẽ bỏ phiếu cho tổng thống vào ngày 3 tháng 11, người đắc cử không phải chỉ được
xác định bằng phiếu bầu của quần chúng cử tri mà do số phiếu của Đại cử tri. Tiến
trình này có bốn bước, trong điều kiện bình thường, tạo ra một kết quả rõ ràng.
Đầu tiên, trước cuộc bầu cử, phiếu bầu của Đại cử tri được phân bổ giữa các tiểu
bang theo kết quả cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ mỗi mười năm (giả định rằng điều
tra dân số được hoàn thành đúng). Thứ hai, công dân bỏ phiếu cho ứng cử viên mà
họ lựa chọn (và cử tri đoàn tương ứng) và mỗi tiểu bang sẽ kiểm phiếu theo thủ
tục riêng. Thứ ba, các đại cử tri cho ứng cử viên chiến thắng ở mỗi tiểu bang họp,
bỏ phiếu cho ứng cử viên mà họ cam kết và gửi báo cáo đó cho Quốc hội. Cuối
cùng, vào ngày 6 tháng 1, một phiên họp chung của Quốc hội xác nhận số phiếu bầu
cử của tiểu bang và tuyên bố một người đắc cử.
Để đắc cử, một ứng cử
viên phải có 270 phiếu đại cử tri. Nhưng nếu không có ứng cử viên nào đạt đến
con số đó, vì một số phiếu bầu cử ở tiểu bang đang bị khiếu nại hay không hợp lệ,
Hiến pháp nói rằng Hạ viện chọn tổng thống và Thượng viện sẽ chọn Phó tổng thống.
Khi đầu phiếu trong cuộc bầu chọn này, mỗi tiểu bang sẽ bỏ một phiếu duy nhất.
Việc đảng Dân chủ chiếm đa số trong Hạ viện hiện nay không thành vấn đề. Điều
quan trọng là ở 26 trong số 50 tiểu bang, đảng Cộng hòa nắm giữ đa số phái đoàn
của Hạ viện. Nếu đảng Cộng hòa giữ được lợi thế này sau cuộc bầu cử tháng 11, họ
sẽ bầu Trump. Mặt khác, nếu đảng Dân chủ thành công trong việc giành được một
hoặc hai ghế từ đảng Cộng hòa ở một số bang bị chia phiếu khít khao, thì họ sẽ
có đa số và sẽ bầu Biden. Nếu đảng Dân chủ chỉ lật được một tiểu bang, không đảng
nào đạt được tối thiểu 26 phiếu. Hiến pháp không có hướng dẫn về những gì sẽ xảy
ra sau đó.
Ngày 3 tháng 11 này sẽ
không giống như bất kỳ cuộc bầu cử tổng thống nào trước đó. Một số tiểu bang
đang đòi pahri bỏ phiếu trực tiếp, trong khi các tiểu bang khác cho phép bỏ phiếu
qua thư ở mức chưa từng có. Nhiều tiểu bang đang thí nghiệm những cách bầu mới
để bảo vệ phiếu bầu khỏi sự can thiệp của nước ngoài. Trong bối cảnh nhiều điều
không chắc chắn có thể xảy ra, kết quả của cuộc bỏ phiếu tháng 11 có thể gây nhầm
lẫn như cuộc bầu nội bộ ở Iowa vào tháng Hai. Chúng ta có thể thấy những thất bại
trong hệ thống bỏ phiếu như thất bại trong cuộc bầu cử sơ bộ Georgia vào tháng
trước, hay chờ đợi kết quả như trong các cuộc bầu cử quốc hội gần đây hơn ở New
York và Kentucky? Dưới một đám mây mù cáo buộc gian lận và lạm dụng, người Mỹ có
thể thấy cả hai ứng cử viên cùng tuyên bố đắc cử?
Đối với một số độc giả, ý
nghĩ về một cuộc bầu cử tổng thống mà không có người đắc cử rõ ràng có vẻ huyền
ảo. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã phải trải qua một số cuộc bầu cử tổng thống có nhiều
tranh cãi nghiêm trọng, mỗi cuộc bầu cử như cậy đều nêu rõ những nguy cơ nó có
thể xảy ra một lần nữa trong năm nay.
Trong cuộc tranh cử năm
1824 giữa John Quincy Adams và Andrew Jackson, Jackson rõ ràng đã giành được số
phiếu cử tri và có số phiếu Đại cử tri lớn nhất trong mặc dù ông đã thiếu 32
phiếu để đạt đa số. Jackson tố cáo một cách đúng đắn là một “cuộc mặc cả
tham nhũng”, khi Adams đã thỏa thuận với Henry Clay, người phát ngôn của Hạ
viện, ứng cử viên tổng thống nhưng về hạng tư trong số phiếu của Đại cử
tri. Vì đã ủng hộ Adams, Clay trở thành ngoại trưởng của Adams. Mặc dù ông chấp
nhận thất cử, Jackson đã dành bốn năm tiếp theo để tiến hành một cuộc chiến
chính trị chống lại Adams, dưới quyền của ông ở Washington và trên khắp nước Mỹ
với lý do nhiệm kỳ tổng thống của Adams là bất hợp pháp. Và khi hai người tranh
cử một lần nữa vào năm 1828, Jackson đã thắng cử với một tỷ lệ lớn, mở cửa cho
cuộc cách mạng của Jackson.
Một thập kỷ sau Nội chiến,
cuộc bầu cử tổng thống năm 1876 thậm chí còn nhiều tranh cãi gay gắt hơn nữa. Ứng
cử viên đảng Dân chủ, Samuel J. Tilden, đã đánh bại đảng ứng cử viên đảng Cộng
hòa, Rutherford B. Hayes, trong số phiểu cử tri, nhưng còn 20 phiếu đại cử tri
quyết định vẫn trong vòng tranh chấp. Khi không bên nào đồng ý với một kết quả,
nước Mỹ chao đảo trên bờ vực hỗn loạn. Tổng thống sắp mãn nhiệm Ulysses S.
Grant đã lập kế hoạch dự phòng sẽ áp dụng thiết quân luật, để đất nước không trở
lại cuộc nội chiến. Cuộc bầu cử đó đã không được giải quyết cho đến nhiều tháng
sau, khi các bên đi đến một thỏa thuận bí mật. Theo Thỏa hiệp năm 1877, Hayes
trở thành tổng thống, nhưng đổi lại, ông đồng ý loại bỏ quân đội liên bang khỏi
miền Nam, chấm dứt Thời kỳ tái thiết của Mỹ.
Năm 2000, cuộc tranh cử tổng
thống giữa George W. Bush và Phó Tổng thống đương nhiệm Al Gore đã tùy vào một
tiểu bang: Florida. Bush đã dẫn đầu đáng kể ở đó khi đêm bầu cử kết thúc. Nhưng
đến sáng ngày hôm sau, các mạng truyền hình phải rút lại thông báo của họ về
người đắc cử. Không thắng ở Florida, cả hai ứng cử viên đều không đạt được 270
phiếu đại cử tri cần thiết. Khi Florida bắt đầu đếm lại phiếu, các tranh chấp nảy
sinh về việc liệu các lá phiếu ăkhông được bấm rõ ràng nên bị loại và cuối
cùng, liệu có nên tiếp tục đếm lại phiếu hay không và đếm như thế nào. Vấn đề
cuối cùng đã được đưa lên Tối cao Pháp viện, trong một quyết định 5-4 nghiêng về
phe Cộng hòa – nói cách khác, đã để cho Bush đắc cử. Trong bài phát biểu nhượng
bộ của mình, Gore nói:
“Không còn ngờ gì, dù tôi không đồng ý, tôi chấp nhận
quyết định của Tòa án.”
Al Gore
Trong lịch sử, sự khác biệt
giữa một tổng thống Hoa Kỳ và một vị Sa Hoàng là một người chấp nhận có thể thất
bại ở thùng phiếu. Sau một cuộc vận động tranh cử nóng bỏng một năm trước khi đất
nước tan rã trong cuộc nội chiến, Stephen Douglas đã thừa nhận với Abraham
Lincoln với lời lẽ
“Tình cảm bè đảng phải nhường chỗ cho lòng yêu nước.”
Stephen Douglas
Tuy nhiên, nguyên tắc rõ
ràng đó có thể lụi tàn trong một cuộc tranh cử sát nút, đặc biệt là nếu tổng thống
đương nhiệm khăng khăng giữ lấy quyền lực. Nếu xã hội của chúng ta vẫn còn bị rối
loạn trong bối cảnh đại dịch đang tiếp diễn, nếu các biện pháp đàn áp cử tri
khiến một số người Mỹ không có tiếng nói, nếu các lá phiếu gởi bằng bưu điện bị
trục trặc và sự can thiệp của nước ngoài ảnh hưởng đến số phiếu bầu, và nếu các
cuộc thăm dò ý kiến cho thấy cuộc bầu cử đã kết thúc, các kịch bản
ác mộng trở nên có thể xảy ra hơn. Trong những điều kiện này, hy vọng tốt
nhất cho nước Mỹ để thoát khỏi tình trạng khó xử của Sa Hoàng là bầu quyết liệt
cho một ứng cử viên đắc cử một cách bất khả tranh biện.
------------------------------
Graham Allison là cựu
giám đốc của Trung tâm Belfer về Khoa học và Quốc tế Vụ thuộc trường Harvard
Kennedy School và là cựu phụ tá bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ về chính sách và kế
hoạch. Ông là tác giả cuốn “Destined for War: Can America and China Escape
Thucydides’s Trap?”
© 2020 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn
và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net”
------------------------
Nguồn:
Trump Might Not Want to Relinquish Power| Graham Allison | The Atlantic | July12,
2020.
Chúng tôi muốn nghe những gì bạn đọc nghĩ về bài viết này. Gửi thư cho biên tập viên hoặc viết thư cho Letters@theatlantic.com.
No comments:
Post a Comment