Quỳnh
Vi -
Luật Khoa
16/07/2020
Ta thường nghe các đảng
phái ở Mỹ chỉ mong có cơ hội được bổ nhiệm thẩm phán Tối cao Pháp viện nhằm bảo
vệ ý thức hệ cũng như quyền lợi của mình.
Lại có nhiều người khác
nói đến tính độc lập của các thẩm phán của Tối cao Pháp viện, rằng họ có thể ra
phán quyết bất lợi cho vị tổng thống đã bổ nhiệm mình, hay bất lợi cho chính đảng
phái đã đưa họ lên.
Chuyện này trên thực tế
thì thế nào?
Chánh án John
Roberts (trái) cùng các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tham dự phiên báo
cáo Thông điệp Liên bang của Tổng thống Donald Trump tại Quốc hội ngày
4/2/2020. Ảnh: AP
Mức độ trung thành
Một nghiên cứu của hai
giáo sư luật, Lee Epstein (Đại học Washington) và Eric A. Posner (Đại học
Chicago) cho
thấy, tất cả các thẩm phán tại Tối cao Pháp viện Mỹ từ 1937 đến 2014 (trừ
duy nhất một người) đều bỏ phiếu ủng hộ vị tổng thống đã bổ nhiệm họ trong đa số
các vụ án/vấn đề, với tỷ lệ trung bình là 65%.
Sau vị tổng thống bổ nhiệm,
các thẩm phán cũng có xu hướng bỏ phiếu nghiêng về các tổng thống cùng đảng
trong các vụ án liên quan đến các vị này.
Một nghiên
cứu khác thì cho thấy có mối tương quan đáng kể giữa các mối quan hệ đảng
phái của một thẩm phán với lá phiếu của họ trong phòng xử án. Điều đó có nghĩa
là các đảng phái có thể kỳ vọng người được mình đưa lên sẽ có xu hướng bỏ phiếu
theo hướng có lợi cho ý thức hệ hay quyền lợi của đảng mình.
(Xin lưu ý rằng bỏ phiếu
có lợi ở đây không đồng nghĩa với việc các thẩm phán ăn đút
lót của một tổng thống hay một đảng phái.)
Cả hai đảng Cộng hòa và
Dân chủ đều hiểu rõ việc này. Và nếu có được lợi thế bổ nhiệm thẩm phán mới tại
Tối cao Pháp viện, thì đó là một cơ hội chính trị mà không phe nào bỏ qua. Theo
thủ tục, tổng thống có quyền đề cử và Thượng viện có quyền phê chuẩn chức danh
thẩm phán Tối cao Pháp viện.
Chúng ta đã từng thấy Thượng
viện (Senate) Mỹ với Đảng Cộng hòa nắm đa số đã không chấp nhận mở phiên họp
xem xét đề cử của Tổng thống Barack Obama đối với ông Merrick Garland khi
thẩm phán Antonin Scalia qua đời vào tháng 3/2016.
Lý do Đảng Cộng hòa đưa
ra là vì năm 2016 có cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, nên không đủ thời
gian xem xét đề cử này. Thêm vào đó, họ cho rằng nên để cho người dân Mỹ quyết
định việc này qua lá phiếu bầu cử của họ. Ý của Đảng Cộng hòa là hãy để cho vị
tổng thống kế tiếp và các thượng nghị sĩ khóa tới (sẽ bắt đầu làm việc từ tháng
1/2017) quyết định ghế thẩm phán còn trống này.
Ông Merrick B.
Garland (giữa) trong lễ công bố đề cử cho chức vụ thẩm phán Tối cao Pháp viện,
tháng 3/2016. Ảnh: Getty Images.
Đảng Dân chủ đương nhiên
phản đối lập luận này. Theo họ, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lý do này đã
được đưa ra để ngăn chặn một tổng thống bổ nhiệm thẩm phán tại Tối cao Pháp viện
trong khi còn gần tám tháng nữa mới tới tổng tuyển cử.
Thế nhưng, Đảng Cộng hòa
đã thành công và sau khi Tổng thống Donald J. Trump nhậm chức ngày 20/1/2017,
ông đã đề cử ông Neil Gorsuch vào chức vụ thẩm phán nói trên. Vào tháng 4/2017,
ông Gorsuch tuyên thệ gia nhập Tối cao Pháp viện. Thời gian đề cử và phê chuẩn
cho ông Gorsuch không tốn quá nhiều thời gian như lập luận Đảng Cộng hòa đưa ra
một năm trước đó.
Đảng Dân chủ cũng không hề
bỏ qua cơ hội bổ nhiệm thẩm phán. Hiện họ đang mong sẽ nắm được ghế tổng thống
và thế đa số trong Thượng viện kể từ năm tới để chủ động kiểm soát được việc bổ
nhiệm thẩm phán mới.
Từ khi Donald J. Trump trở
thành tổng thống, bà thẩm phán Ruth Bader Ginsburg của Tối cao Pháp viện Mỹ đã
có mấy phen phải nghỉ việc tạm thời vì lâm bệnh ung thư. Tuy nhiên, bà Ginsburg
không hề từ chức và có lẽ sẽ quyết tâm tại chức cho đến sau cuộc tổng tuyển cử
năm 2020 mặc dù bà đã 87 tuổi.
Lý do là vì bà Ginsburg –
người được Tổng thống Bill Clinton bổ nhiệm – được cho là thuộc phe tự do
(liberal) và Đảng Dân chủ sẽ không muốn Đảng Cộng hòa có thể bổ nhiệm một người
bảo thủ thay thế nếu bà ấy từ chức. Và hiện nay, họ đang trông chờ chức vụ tổng
thống sẽ do người của đảng họ – nếu trúng cử sau mùa bầu cử năm nay – thực hiện
điều đó.
Vì thế, cho dù lý do
không ủng hộ thẩm phán được bổ nhiệm từ phe đối lập được đưa ra là gì đi chăng
nữa, thì sự thật vẫn là hai đảng phái chính trị tại Mỹ chỉ muốn bổ nhiệm thẩm
phán thuộc “phe mình” hoặc ít nhất là thẩm phán trung lập.
Độc lập
Trong lịch sử Hoa Kỳ, các
vị thẩm phán của Tối cao Pháp viện vẫn có những phán quyết đi ngược lại với tổng
thống từ đảng phái của họ, thậm chí kể cả những tổng thống đã bổ nhiệm họ.
Gần 50 năm trước, Tổng thống
Richard Nixon đã không hề ngờ là cả ba vị thẩm phán mà ông bổ nhiệm vào Tối cao
Pháp viện đã đưa ra phán quyết bắt
buộc ông phải cung cấp những cuộn băng thâu âm trong vụ án lịch sử
Watergate vào năm 1974, để rồi không lâu sau đó ông phải từ chức.
Và thật ra, ngay từ khi
Hoa Kỳ bắt đầu thành lập, các vị tổng thống như Thomas Jefferson và James
Madison đều phải kêu trời khi các thẩm phán Tối cao Pháp viện mà họ bổ nhiệm
đã không
đưa ra những phán quyết theo ý họ.
Năm 2018, sau khi Tổng thống
Trump chỉ trích một vị thẩm phán được Tổng thống Obama thuộc Đảng Dân chủ bổ
nhiệm, Chánh án John Roberts đã tuyên bố: “Chúng ta không có quan tòa của
Obama hay quan tòa của Trump, của Bush hoặc của Clinton. Thứ mà chúng ta có là
một nhóm thẩm phán tuyệt vời, là những người làm việc một cách tốt nhất để bảo
đảm quyền lợi công bằng cho những ai tranh biện trong phiên tòa mà họ đang xét
xử”.
Phát biểu của ông John
Roberts là một điều mà những ai nặng lòng với tư pháp độc lập đều mong muốn đó
là sự thật.
Xu hướng ý thức hệ
của các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ do Axios phân tích và công bố tháng
6/2019. Ảnh: Axios.
Chánh án John Roberts là
người thuộc Đảng Cộng hòa và được nhiều người cho là một người bảo thủ
(conservative). John Roberts đương nhiên được kỳ vọng sẽ đưa ra những phán quyết
theo hướng ủng hộ phe bảo thủ và các chính sách của đảng chính trị mà ông là
thành viên.
Thế nhưng, thật ra không
ai có thể kiểm soát các thẩm phán và chánh án tại Tối cao Pháp viện khi họ phải
đưa ra những quyết định pháp lý có thể ảnh hưởng đến tương lai của nhiều thế hệ
tiếp nối. Với cơ chế bổ nhiệm suốt đời, một thẩm phán có thể tại vị hàng thập kỷ
mà gần như không sợ bị bãi chức. Bản thân họ, sau khi được bổ nhiệm, cũng chẳng
nợ nần gì vị tổng thống hay đảng chính trị đã đưa họ lên. Văn hóa chính trị Mỹ
thậm chí còn có xu hướng lên án mọi sự can dự của phủ tổng thống và Quốc hội tới
Tối cao Pháp viện.
Trong những tuần đầu
tháng 7/2020, các phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã khiến cho nhiều
người ngạc nhiên. Chánh án John Roberts đã đứng cùng phe với những thẩm phán được
cho là phe tự do để đưa ra một số phán quyết khá quan trọng.
Càng ngạc nhiên hơn, thẩm
phán Neil Gorsuch, người được Tổng thống Trump bổ nhiệm vào năm 2017, cũng đứng
về phe đưa ra quyết định bảo vệ quyền lợi của người đồng giới và chuyển tính
(homosexual and transgender) theo Đạo luật Dân quyền Liên bang năm 1964 (Civil
Rights Act of 1964) trong án lệ Bostock
kiện Clayton County, Georgia.
Ngoài ra, Chánh án John
Roberts cũng đồng ý đưa ra phán quyết đảm bảo quyền cho những di dân bất hợp
pháp đã đến Mỹ trong độ tuổi vị thành niên (Deferred Action for Childhood
Arrivals – DACA), và kể cả bảo vệ quyền phá thai trong án lệ June
Medical Services, LLC kiện Russo.
Điều khiến cho một số người
ngạc nhiên là vì họ cho rằng những quyết định này của Chánh án Roberts và thẩm
phán Gorsuch hầu như đi ngược lại với những chính sách của Đảng Cộng hòa cũng
như nội các của Tổng thống Trump.
Và gần đây nhất, ngày
9/7/2020, Tổng thống Trump đã hứng chịu một thất
bại đau đớn, khi cả hai vị thẩm phán mà ông bổ nhiệm, Neil Gorsuch và Brad
Kavanagh, đều bỏ phiếu yêu cầu ông giao nộp hồ sơ thuế của cá nhân ông cho công
tố viên bang New York, đồng thời để ngỏ khả năng Quốc hội Mỹ cũng có thể tiếp cận
hồ sơ thuế này.
(Xin lưu ý, các thẩm phán
có thể bỏ phiếu như nhau nhưng lý do bỏ phiếu của họ có thể rất khác nhau.
Không nhất thiết là phải bảo vệ quyền phá thai hay quyền của người đồng tính
thì mới bỏ phiếu có lợi cho các phe này trong một vụ án nhất định. Nhưng đây là
một đề tài khác và sẽ được bàn đến trong một dịp khác.)
Hai thẩm phán Brett
Kavanaugh và Neil Gorsuch do TT Trump bổ nhiệm. Ảnh: Getty.
Nhìn về Việt Nam
Việc phân chia quyền lực
(checks and balances) tại Mỹ cho phép các thẩm phán của Tối cao Pháp viện không
phải dùng quyền lực của mình để phục vụ cho những mục đích và chính sách của đảng
phái, cho dù bản thân từng là người thuộc về đảng đó. Hơn thế, vai trò của chức
vụ này vốn phải là “phi chính trị” (apolitical) theo những nhà lập quốc Hoa Kỳ
đã đề ra từ
trước.
Mô hình phân chia quyền lực
của ba nhánh nhà nước tại Mỹ có thể khó cho người Việt Nam hình dung và đồng ý.
Đó là vì xã hội chúng ta vốn quen thuộc hơn với mô hình chia sẻ quyền lực theo
hình thẳng đứng (vertical sharing power).
Từ thời phong kiến, quyền
lực của một vị vua đứng trên hết mọi người và đưa ra quyết định xuống cấp dưới,
các quan lại và mọi người dân phải tuân phục. Cho đến ngày hôm nay, mô hình
“dân chủ tập trung” của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tương tự như vậy. Hầu như mọi quyết định về mọi mặt
của Chính phủ, Quốc hội và cả hệ thống tòa án đều phải được Đảng Cộng Sản Việt
Nam thông qua trước hết.
Trong khi đó, mô hình
phân chia quyền lực của nước Mỹ thì lại khác. Đó là mô hình chia sẻ quyền lực
theo hàng ngang (horizontal sharing power), khi ba nhánh lập pháp, tư pháp, và
hành pháp đều có quyền lực ngang bằng và độc lập với nhau.
Do đó, một người tổng thống
(đại diện nhóm hành pháp) và kể cả Quốc hội (lập pháp), chỉ có thể mong đợi
nhánh tư pháp (tòa án) sẽ đưa ra quyết định ủng hộ chính sách của mình, chứ cả
hai nhánh hành pháp và lập pháp đều biết họ không có quyền áp đặt nhánh tư pháp
phải đưa ra quyết định theo ý họ sắp xếp.
Trong phán quyết của Tối
cao Pháp viện về vụ hồ sơ thuế của Tổng thống Trump, thẩm phán Brett Kavanaugh viết:
“Tối cao Pháp viện ngày
hôm nay đồng lòng kết luận rằng, một vị tổng thống không có
quyền đặc cách miễn trừ (absolute immunity) đối với một trát tòa đến từ tòa án
của một tiểu bang… Trong hệ thống chính quyền của chúng ta – như Tối cao Pháp
viện đã nhiều lần khẳng định – không ai đứng trên pháp luật. Và định nghĩa đó
đã được áp dụng, dĩ nhiên là cả đối với một vị tổng thống.”
Tinh thần pháp quyền và độc lập tư
pháp đó là thứ đang thiếu vắng trong cả hệ thống pháp luật lẫn văn hóa pháp lý
của chúng ta, và là thứ chúng ta cần có.
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài
bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.
No comments:
Post a Comment