04/07/2020
Phường hát đem nay
qua chợ nhỏ,
Một đêm mưa gió, rất
thưa giàn,
Vé không bán được,
cho vào hết,
“Thả cửa” thêm đông
dễ kéo màn!
Nguyễn Phương 1/7/1922 – 7/1/2020
*
Đi nghe Hương Lan và Tuấn
Vũ hát thử một đêm, giữa lòng Hà Nội, cũng tựa như đi ăn một bữa phở chui
vào thời bao cấp vậy. Dù “nhạc sến” không “chất lượng” gì cho lắm nó vẫn có thể
khiến cho thiên hạ bùi ngùi, xuýt xoa hay hít hà và nước mắt nước mũi ướt khăn
chỉ vì họ đã (lỡ) phải ăn quá nhiều những tô phở quốc doanh – không người lái –
thế thôi!
Tnt
Thưở sinh thời – khi vui
miệng – có lần soạn giả Nguyễn Phương đã kể lại
lúc đưa đám cô Năm Phỉ, và chuyện ông Chín Trích đập vỡ cây đàn:
“Ngày cô Năm Phỉ mất, người đến viếng tang nghe nhạc
sĩ Chín Trích đàn ròng rã mấy ngày liên tiếp bên quan tài… Ông vừa đờn vừa
khóc. Đến lúc động quan, trước khi đạo tỳ đến làm lễ di quan, nhạc sĩ Chín
Trích đến lậy lần chót, ông khóc lớn:’ Cô Năm đã mất rồi, từ nay Chín Trích sẽ
không còn đờn cho ai ca nữa…’ Nói xong ông đập vỡ cây đờn trước quan tài người
quá cố.
“Việc xảy quá đột ngột và trong hoàn cảnh bi thương
của kẻ còn đang khóc thương người mất, mọi người im lặng chia sẻ nỗi đau của
gia đình người quá cố và của nhạc sĩ Chín Trích. Khi hạ huyệt thì người nhà của
cô Năm Phỉ chôn luôn cây đàn gãy của nhạc sĩ Chín Trích xuống mộ phần của cô
Năm Phỉ.” (Thời
Báo USA, số 321, 18/02/2011, trang 67)
Cô Năm Phỉ Năm qua đời
năm 1952, vì tai biến mạch máu não, khi đang trình diễn ở rạp Nam Quang. Cái chết
đột ngột của cô, ngay trên trên sân khấu của ghánh hát Nam Phi, được tất cả các
tờ nhật báo ở miền Nam trang trọng loan tin, đã khiến cho khán giả mộ điệu bốn
phương bàng hoàng nuối tiếc!
Thập niên 50 và 60 là thời
vàng son của nền cổ nhạc, vẫn theo như lời kể của soạn giả Nguyễn
Phương:
“Saigon và các tỉnh thành
ở miền Nam Việt Nam, có nhiều đoàn hát cải lương như đoàn hát Nam Đồng Ban, Huỳnh
Kỳ, Trần Đắc, Phước Cương, Văn Hí Ban, Văn Võ Hí Ban, Tân Thinh, Hữu Thành, Phụng
Hảo, Nam Hưng, Kỳ Quan, Tập Ích Ban, Thái Bình, Tiến Hóa, đoàn cải lương Hậu Tấn
– Năm Nghĩa, Hậu Tấn – Bảy Cao, Việt Kịch Năm Châu, đoàn Mộng Vân, đoàn Sống Mới
– Năm Nở, đoàn hát Phát Thanh, đoàn Tiếng Chuông … (còn nhiều nữa, kể không xiết…)”
Cô Năm Phỉ & Mộ
bia nhạc sĩ Chính Trích. Ảnh : Thời Bóa Canada
Cùng lúc, đây cũng là thời
mà “cái nghề nghiệp ca trù (bị ) truy nã tận cùng” – ở bên kia giới tuyến –
theo như cách nói của Phùng Cung. Qua truyện ngắn Mộ
Phách, tác giả đã kể lại chuyện đập vỡ một cây đàn khác (của một đôi
nghệ sĩ khác) sau khi thời thế đã buộc họ phải bỏ nghề:
“Vợ chồng kép Chản, đào Khuê lặng buồn, trăn trở thầm
kín, nuối tiếc không phải là sự thất thoát lưng cơm, manh áo, mà là sự đổi thay
từ dáng dấp đến vẻ mặt, đến lời ăn tiếng nói của cả vợ chồng. Tư Chản rầu rĩ
thương nghề, thương vợ mà không một lời phàn nàn ra miệng.
“Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ
toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và
bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn
ngơ, quên, nhớ mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành
kính vái cây đàn đủ bốn vái.”
Sự “rầu rĩ thương nghề” của
kép Chản, cũng như thái độ “thành kính” của ông với cây đàn – tất nhiên – không
qua khỏi tai mắt nhân dân và (cuối cùng) đã lọt đến tai cậu con trai, đang đi bộ
đội ở xa. Khi được về phép thăm nhà, cậu không bỏ lỡ cơ hội để “động viên” hai
đấng sinh thành:
– “Bố mẹ bình tĩnh nghĩ
xem, việc làm lạc hậu ấy, nó kìm hãm bước tiến của con. Có lẽ đâu gia đình của
một quân nhân cách mạng lại như vậy. Bố mẹ vẫn tự cùm mình trong thành phần tiểu
tư sản nông thôn. Con chậm kết nạp Đảng là vì vậy: là vì cây đàn!
….
….
Ông Chản như bị cứng lưỡi,
không dám nhìn lại con, ngơ ngác; đi lùi lại hai bước; vẫn không cất nên lời.
Thuyên giục bố:
– Bố cứ đập quách nó đi!
“Ông Chản nhìn lên cây
đàn, mặt nhợt đi, miệng lắp bắp lạc giọng:
– Thôi! Mày đập đi Thuyên
ạ!
– Vâng, để con! Mắt
Thuyên long lên…
‘Choác!’ một tiếng trước
cửa bếp.Thuyên mắm môi, quắc mắt, tay đập, chân đạp vào cần vào đáy đàn khiến
cây đàn biến thành củi. Ngoài sân, ông Chản bưng tai như nghe sét đánh, liêu
xiêu bước ra ngõ.
Bà Chản thoái dạ, ‘ối’
lên một tiếng. Trống ngực rộn rã như xẩy chân từ trên cao xuống, mắt hoa lên, mọi
vật trước mắt quay cuồng, bà Chản phải chống hai tay xuống đất để giữ được thế
ngồi ‘cóc vái giời.’ Bà cố định thần để nhận biết việc xẩy ra đã xẩy ra. Bà cúi
mặt khóc rấm rứt. Nước mắt đứt, nối, kéo dài cả một quá khứ tiêu tan trong giây
lát.” [Phùng Cung. “Mộ Phách.” Truyện Và Thơ (Chưa Hề Xuất Bản). Văn Nghệ:
California, 2003].
Phùng
Cung và bìa tác phẩm “Truyện Và Thơ”. Ảnh: RFI
“Mộ Phách,” theo nhận xét của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong một thời mà nghệ thuật
đích thực không còn chỗ đứng.”
Nghệ Thuật Cách Mạng, rồi
ra, cũng không “đứng” được lâu – theo như lời “phàn nàn” của tác giả Đặng Hữu Phúc:
“Hồi cuối tháng 8 vừa
qua, show diễn hát theo yêu cầu của họ ở Nhà Hát Lớn giá 1 triệu rưỡi đến 1 triệu
7 cho 1 vé. Biểu diễn hàng nửa tháng trời mà vẫn kín chỗ, không có vé mà mua.
Mà hình như họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng, vượt cả sự tưởng tượng của chính
họ, nên họ lại đã quảng cáo biểu diễn tiếp tại Nhà hát lớn sau Đại lễ 1000
năm.
Như vậy, ‘sự kiện âm nhạc’
nổi bật trong thời gian trước thềm Đại lễ lại là những đêm nhạc ‘Sến’ của
Hương Lan, Tuấn Vũ (!!!) Những chuyện này trước đây không thể xảy ra. Còn
nhớ năm 1970, dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh Beethoven, 10 đêm nhạc Beethoven ở
Nhà Hát Lớn lúc nào cũng đông nghịt người.
Bây giờ chắc không thể được
như thế, ngay mới đây thôi, hai tối 17&18/9/2010, chương trình hòa nhạc
‘VNSO Beethoven cycle Vol.5’ với nghệ sĩ piano nổi tiếng người Nhật Michie
Koyama (Người đoạt cả 2 giải quốc tế vào loại lớn nhất : Chopin và Tchaikovsky)
thì vắng người xem.
Hàng năm nghệ sĩ Đặng
Thái Sơn thường có ít nhất 10-15 buổi concert tại Nhật, nhiều buổi tại
Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc…và trên khắp thế giới , còn tại Việt Nam nếu tính
đêm diễn trọn vẹn thì 3 hay 4 năm Sơn mới làm một concert tại Việt Nam. Đơn giản
vì ngày nay không còn nhiều khán giả biết thưởng thức thứ âm nhạc chuyên nghiệp
tinh hoa, và văn hóa nghe nhạc (im lặng tuyệt đối) còn rất thấp. Bây giờ thì số
đông người ta chọn nghe Hương Lan – Tuấn Vũ. Vậy văn hóa Hà nội đang xuống cấp
so với chính ta?”
Nói thiệt: không nhờ cái
ông Phúc này thì phen này tui hố nặng. Ai mà dè rằng người Hà Nội chỉ sính nghe
nhạc cổ điển tây phương, và những “đêm nhạc Beethoven ở Nhà Hát Lớn lúc nào
cũng đông kìn kịt người” như thế. Vậy mà tui cứ tưởng là dân Hà Thành chỉ toàn
nghe loại nhạc loa (giăng mắc khắp 36 phố phường) thôi chớ.
Tôi thực lấy làm tiếc vì
sự hồ đồ của mình, và vô cùng cảm kích vì những thông tin rất qúi giá (và cũng
rất qúi tộc) mà ông Đặng Hữu Phúc vừa cung cấp. Tôi chưa bao giờ có cơ duyên được
đặt chân đến mảnh Đất Ngàn Năm Văn Vật. Một kẻ xa lạ (tới cỡ đó ) mà cứ tiếp tục
huyên thuyên nói mãi về Hà Nội, và Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh – xem ra –
cũng có hơi kỳ, nếu chưa muốn nói là … lố bịch!
Xin nhường lời lại cho một
ông bạn cố tri, vốn người đất Tràng An, một tác giả sinh trưởng trong lòng cách
mạng:
“Nơi em về trời xanh
không em… ? Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy,
còn các Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… đã bị đánh bật rễ khỏi người đọc,
gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa cổ, le lói trong ký ức người già. Các tay
‘yêu’ lừng lẫy một thời vẫn còn đấy, nhưng đã biến thành Xuân Diệu Xuân Xanh
Xuân… Tóc đỏ.
Người ta đã tiêu thổ
kháng chiến đến cả yêu đương. Nói đến ‘yêu’ cũng phạm húy, phải gọi là ‘tìm hiểu’,
người yêu là ‘đối tượng tình cảm’ (đối tượng đoàn, đối tượng đảng, đối tượng của
pháp luật )…Tình yêu không được thi ca ấp ủ, dẫn dắt, hướng thượng, thè lè đi
ngoài đường trong những dịp quốc khánh, hội hè đông người để sờ mó, gỡ gạc lẫn
nhau, ‘hủ hóa’ với nhau trong nhà kho công sở, hoặc nếu đúng đắn nghiêm chỉnh
hơn thì đặt ra tiêu chuẩn ‘3B’ (Bôn sê vích, buồng ở, bia cung cấp) để ‘tìm hiểu’.
Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng ‘Đồng chí công tác ở cơ quan nào
?…” (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: California, 1987).
Nghe mà ớn chè đậu!
Thảo nào, khi Hương Lan
và Tuấn Vũ mang những bản nhạc sến của miền Nam ra trình diễn thì “họ ăn khách
Thủ đô đến ngỡ ngàng.”
Trời, còn “ngỡ ngàng” cái
con bà gì nữa?
Chớ (không lẽ) suốt ngày
cứ bâng khuâng “nhớ đôi dép đơn sơ đôi dép bác Hồ,”
suốt đêm cứ nằm mơ thấy “râu Bác dài, tóc Bác bạc phơ,”
và suốt đời lúc nào cũng chỉ có mỗi một “nguyện vọng duy nhất” là được dịp “dâng lên cho Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời” sao?
Hát hò kiểu đó hoài, mắc
cở chết mẹ, ai mà chịu được? Thỉnh thoảng cũng phải có Chuyện Tình Lan Và Điệp,
Hoa Sứ Nhà Nàng, Giọt Lệ Đài Trang, Lâu Đài Tình Ái, Người Yêu Cô Đơn… này nọ –
cho nó hợp với tính thật của mình, và đỡ ớn chút xíu – chớ, đúng không?
Đi nghe Hương Lan và Tuấn
Vũ hát thử một đêm, giữa lòng Hà Nội, cũng tựa như đi ăn một bữa phở chui
vào thời bao cấp vậy. Dù “nhạc sến” không “chất lượng” gì cho lắm nó vẫn có thể
khiến cho thiên hạ bùi ngùi, xuýt xoa hay hít hà và nước mắt nước mũi ướt khăn
chỉ vì họ đã (lỡ) phải ăn quá nhiều những tô phở quốc doanh – không người lái –
thế thôi!
Giản dị, và trần trụi, chỉ
có “thế thôi” mà giáo sư âm nhạc Đặng Hữu Phúc đặt vấn đề rất trầm trọng (nghe)
thấy ghê quá hà:
”Nếu ta cứ khuyến khích
thế hệ trẻ nghe và ta cứ quảng bá những loại nhạc ‘rác’, nhạc bình
dân, ca khúc quần chúng mãi, thì rồi sẽ đến một lúc họ sẽ quay lưng lại với
Bach, Beethoven, Chopin.. với Quan họ, Chèo, Ca trù… với văn hoá đích thực.
Đó sẽ là chuyện tất yếu và đã xảy ra rồi.” (“Khi Đặng
Thái Sơn không thể ‘địch’ lại Hương Lan, Tuấn Vũ” – Báo Mới 24/10/2010)
Coi: Đảng và nhà nước
(ta) có “khuyến khích” và “quảng bá những loại nhạc rác” cũng như “nhạc vàng,
nhạc sến” bao giờ đâu, hả Giời? Nói theo nguyên văn lời của Phùng Cung là chúng
bị “truy nã đến tận cùng,” từ hơn nửa thế kỷ nay, nhưng vẫn (may mắn) thoát nạn
đấy chứ. Chúng cũng bị hết bị nghị quyết này, đến nghị quyết khác (rắp tâm)
chôn sống nhiều lần nhưng vẫn không (chịu) chết đấy thôi.
Và nếu (lỡ) quần chúng có
quay “lưng lại với Bach, Beethoven, Chopin.. với Quan họ, Chèo, Ca trù… với
văn hoá đích thực” thì hãy chỉ mặt vào thủ phạm mà … chửi, chứ sao lại (tráo trở)
đổ thừa cho nạn nhân – kỳ cục vậy cha nội?
No comments:
Post a Comment