Nguyễn
Quang Dy
11/07/2020
Năm 2020 tuy có nhiều biến
động khó lường, nhưng Việt Nam đã kiểm soát được dịch Covid-19 một cách đầy ấn
tượng. Thủ tướng Việt Nam đã chủ tọa Hội nghị Cấp cao ASEAN Đặc biệt về
Covid-19 họp trực tuyến (14/4). Sau hai tháng bị hoãn, Thủ tướng Việt Nam đã chủ
tọa Hội nghị Cấp cao ASEAN 36 họp trực tuyến (26/6). Dư luận đã đánh giá cao
tuyên bố cứng rắn của Chủ tịch ASEAN về tranh chấp ở Biển Đông, phản ánh đoàn kết
cao hơn của ASEAN cũng như vai trò lớn hơn của Việt Nam khi làm Chủ tịch ASEAN
năm 2020.
Lập trường cứng rắn
hơn của ASEAN
Theo báo chí quốc tế,
tuyên bố của Chủ tịch ASEAN năm 2020, “đã khẳng định nguyên tắc UNCLOS 1982 là
cơ sở duy nhất để phán quyết về quyền lợi hàng hải, quyền chủ quyền, quyền tài
phán và lợi ích chính đáng tại các vùng biển”. (ASEAN finally pushes back on
China’s sea claims, Richard Javad
Heydarian, Asia Times, June 30, 2020).
Lần đầu tiên, tuyên bố của
Hội nghị Cấp cao ASEAN làm rõ lập trường cứng rắn hơn về tranh chấp ở Biển
Đông. Với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cam kết đảm bảo vai trò trung tâm của
ASEAN và sự gắn bó chiến lược. Tuyên bố cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải duy
trì và thúc đẩy một môi trường thuận lợi cho đàm phán về COC, và hoan nghênh
các biện pháp làm giảm căng thẳng và tránh sự cố rủi ro, hiểu lầm hay tính toán
sai.
Theo Collin Koh (Rajaratnam
School), “ASEAN đã đoàn kết hơn dưới sự dẫn dắt của Việt Nam” (BBC News, 10/7).
Lập trường cứng rắn hơn của ASEAN về Biển Đông là do vai trò Chủ tịch của Việt
Nam đã vận động các nước đoàn kết giải quyết tranh chấp. Tuy đại dịch đã cản trở
ASEAN họp cấp cao theo truyền thống để các nhà lãnh đạo làm việc trực tiếp,
nhưng Tuyên bố của ASEAN vẫn là một điểm sáng của Hội nghị Cấp cao ASEAN 36.
Tại Hội nghị Cấp cao
ASEAN, Thủ tướng Việt Nam đã gián tiếp chỉ trích Trung Quốc về “những hành động
vô trách nhiệm, vi phạm luật quốc tế”. Trung Quốc và Mỹ đã tập trận quy
mô lớn tại Biển Đông vào đầu tháng 7/2020, làm tranh chấp khu vực tại Biển Đông
tiến gần hơn tới xung đột giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. (US and
China inch closer towards a conflict at sea,Richard Javad
Heydarian, Asia Times, July 6, 2020).
Ông Phạm Quang Vinh (cựu
đại sứ Việt Nam tại Mỹ, là cố vấn cho Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN) nhận xét:
“Chúng tôi phải làm việc với mọi người…Chúng tôi phải đảm bảo các nước tham gia
duy trì hòa bình và ổn định. Nói chung, chúng tôi nhất trí rằng Mỹ quan trọng đối
với khu vực về an ninh và thịnh vượng…Chúng tôi cần Mỹ hợp tác với các thể chế
khác nhau của ASEAN vì ASEAN chỉ mạnh nếu hợp tác với các nước lớn… Chúng tôi
muốn trung lập, nhưng không muốn bất kỳ ai khống chế khu vực”.
Phán ứng mạnh hơn của
Mỹ
Chính quyền Mỹ đã hoan
nghênh tuyên bố của ASEAN. Ngày 29/6, Ngoại trưởng Mike Pompeo viết: “Mỹ hoan
nghênh các nhà lãnh đạo ASEAN đòi tranh chấp ở Biển Đông được giải quyết theo
luật quốc tế, trong đó có UNCLOS. Trung Quốc không được phép coi Biển Đông như
vương quốc biển của họ. Chúng tôi sẽ lên tiếng mạnh hơn về vấn đề này”.
Theo Wall Street
Journal, (4/7/2020), tuyên bố cứng rắn của Mike Pompeo trùng hợp với
việc Mỹ điều động nhóm tác chiến gồm ba tàu sân bay USS Ronald Reagan, USS
Nimitz, USS Theodore Roosevelt, tới Tây Thái Bình Dương (6/2020). Hai tàu sân
bay USS Ronald Reagan và USS Nimitz được 4 chiến hạm hộ tống, bắt đầu tập trận
lớn tại Biển Đông vào ngày độc lập của Mỹ (4/7), sau cuộc tập trận tại vùng biển
Philippine (28/6).
Những hành động nói trên
tiếp nối các hoạt động của hải quân Mỹ vào tháng 4/2020 để hỗ trợ Malaysia thăm
dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, nhằm đối phó với hoạt động quấy
rối và bắt nạt của Trung Quốc. Những hành động đó chứng tỏ Mỹ cũng sẽ làm như vậy
để hỗ trợ Viêt Nam thăm dò dầu khí tại vùng đặc quyền kinh tế gần Bãi Tư Chính,
nhằm thách thức các hoạt động quấy rối và bắt nạt của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trong khi đại dịch
Covid-19 vẫn là thảm họa toàn cầu, Trung Quốc tăng cường bắt nạt các nước ở Biển
Đông. Hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Hoàng Sa (1-5/7), làm gia tăng
đối đầu Mỹ-Trung ở khu vực, trước tin đồn Trung Quốc có thể tuyên bố lập vùng
nhận diện phòng không (ADIZ) tại Biển Đông. Trung Quốc đã gây áp lực về chính
trị buộc Việt Nam dừng kế hoạch triển khai giàn khoan Noble Clyde Boudreaux đã
thuê từ 30/4.
Trong cuộc tập trận hợp đồng
tác chiến tại vùng biển Hoàng Sa, Trung Quốc đã sử dụng các tàu chiến thế hệ mới
(như tàu tuần dương có tên lửa điều khiển “Type 052D” và khinh hạm có tên lửa
điều khiển “Type 054A”) và tên lửa mới diệt tàu sân bay “DF-21D và DF-26” có thể
nhắm vào các tàu sân bay Mỹ. Trong khi đó, tàu hải cảnh Trung Quốc (5402) liên
tục áp sát giàn khoan tại mỏ Lan Tây (lô 06) đã hoạt động ổn định qua nhiều
năm.
Theo các nhà phân tích, lần đầu tiên trong sáu năm qua, Mỹ điều nhóm
tác chiến gồm ba tàu sân bay đến khu vực để đối phó với hoạt động của Trung Quốc
bắt nạt các nước ở Biển Đông, đẩy họ xích lại gần Mỹ và từ bỏ chiến lược phòng
ngừa. Điều đó càng làm tăng rủi ro vì tính toán nhầm, biến Biển Đông thành vùng
nguy hiểm nhất. (This is no time to take eyes off the South China Sea, Huong Le Thu & Alexandra
Pascoe, ASPI, July 6, 2020).
Tàu sân bay tuy mạnh,
nhưng cũng dễ bị tổn thương trước tên lửa diệt hạm loại mới. Mỹ triển khai cùng
lúc hai tàu sân bay tại Biển Đông nhằm hỗ trợ lẫn nhau để có thể hoạt động liên
tục 24 giờ. Các cuộc tập trận gần đây bao gồm tàu ngầm tấn công, tàu sân bay,
và máy bay ném bom tầm xa, phản ánh quan điểm mới (paradigm shift) của Bộ Quốc
Phòng Mỹ về cơ chế răn đe, và gửi thông điệp cho Trung Quốc về sức mạnh của hải
quân Mỹ.
Robert Kapland (CNAS) lập
luận rằng liên minh phải dựa vào răn đe, và răn đe phải dựa vào cam kết chiến
lược vững chắc. Hiện nay,
các đồng minh và đối tác Châu Á của Mỹ vẫn thấy cô đơn và dễ bị tổn thương.
Vì vậy, trong khi phải thận trọng để tránh va chạm trực tiếp với Bắc Kinh, họ vẫn
tỏ ra khá dè dặt với Washington. Vị trí địa lý làm Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt
nạt, nếu Trump vẫn không đủ tin cậy. Philippines, Malaysia, Indonesia cũng như
vậy. (How Trump is losing Asia, Robert Kaplan, Washington Post,
July 9, 2020).
Cơ hội và thách thức
mới
2020 là một năm đầy biến
động, làm các nước ASEAN phải đối phó với đại dịch, đứng trước các thách thức
và cơ hội lớn tại một bước ngoặt lịch sử. Một là hành động bắt nạt của Trung Quốc
tại Biển Đông tăng lên. Hai là hệ quả kinh tế của đại dịch Covid-19 rất lớn và
khó lường. Ba là một số nước ASEAN bị Trung Quốc phân hóa và thao túng.
Đại dịch Covid-19 đang
làm thế giới thay đổi căn bản, vượt qua các khái niệm thông thường. “Sự gắn kết
và chủ động thích ứng” hay “Bản sắc và vai trò trung tâm” của ASEAN đòi hỏi phải
đổi mới tư duy và thể chế, nếu không muốn ASEAN bị mắc kẹt vào nguyên tắc đồng
thuận và không can thiệp, có thể làm ASEAN trở thành “vịt què” (lame duck).
Toàn cầu hóa đã làm thay
đổi thế giới trong mấy thập kỷ qua, nhưng gần đây đã bị suy yếu và phải nhường
bước cho chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa biệt lập đang trỗi dậy ở Mỹ và các nơi
khác trên thế giới. Thay vì giúp thế giới đối phó với đại dịch Covid-19 thì
toàn cầu hóa đã làm cho đại dịch lan nhanh hơn và rộng hơn. Vì toàn cầu hóa
đang bị suy yếu, muốn giúp nó tồn tại trước thách thức mới, cộng đồng thế giới
phải thay đổi hệ quy chiếu.
Nguyên tắc đồng thuận và
không can thiệp của ASEAN theo thuyết ZOPFAN đã được “năm nước ASEAN” khởi xướng
từ năm 1967. Khi được mở rộng thành “mười nước ASEAN” từ năm 1997, ASEAN tuy
“càng đông càng vui” trong thập niên đầu, nhưng từ thập niên tiếp theo khi
Trung Quốc trỗi dậy và muốn biến Biển Đông thành cái ao của họ thì ASEAN bắt đầu
bị Trung Quốc phân hóa và thao túng, gây bất ổn cho cơ cấu an ninh khu vực.
Theo Randall Schriver (cựu
trợ lý bộ trưởng quốc phòng) Trung Quốc khuấy động chủ nghĩa dân tộc mỗi khi nội
bộ bất ổn. Mỹ triển khai lực lượng đối phó với Trung Quốc một phần do yêu cầu của
các đồng minh và đối tác Châu Á (như Việt Nam, Đài Loan, Philippines). Gần đây,
đe dọa từ Trung Quốc gia tăng làm Manila phải “suy nghĩ lại” (US Carriers
Send a Message to Beijing Over South China Sea, Jack Detsch, Foreign
Policy, July 9, 2020).
Ngày 11/2, Ngoại trưởng
Philippine Tedoro Locsin tuyên bố Hiệp định VFA (Visiting Forces Agreement) giữa
Manila và Washington (ký năm 1998) sẽ chấm dứt sau 180 ngày. Theo Carl Thayer,
nguyên nhân trực tiếp là do ông Duterte tức giận vì Mỹ từ chối cấp visa cho thượng
nghị sỹ Ronald Muff Dela Rosa. Ngày 4/6, Ngoại trưởng Tedoro Locsin bỗng thông
báo đảo ngược quyết định gây tranh cãi nói trên, chờ quyết định cuối cùng.
Carl Thayer nói với BBC (4/6) rằng bốn năm qua tuy Duterte ngả theo Bắc
Kinh, nhưng nay thất vọng vì họ viện trợ kinh tế thì ít mà bắt nạt thì nhiều,
trong khi Washington vẫn tăng cường vận động sau hậu trường để cải thiện quan hệ. Ngày 9/7, Bộ Ngoại
giao Mỹ đã phê chuẩn hợp đồng để Philippines mua vũ khí Mỹ trị giá
$2 tỷ, để Đài Loan nâng cấp tên lửa Patriot trị giá $620 triệu, để Nhật Bản mua
105 chiếc máy bay F-35 của Mỹ trị giá $23 tỷ…
Thay lời kết
Kinh tế Mỹ lớn hơn kinh tế
Trung Quốc 50% và GDP bình quân đầu người của Mỹ gấp 6 lần Trung Quốc. Các
chuyên gia lập luận rằng “nếu Mỹ không thể tồn tại như một siêu cường toàn cầu,
thì làm sao Trung Quốc có thể trở thành một siêu cường như vậy?” Tuy họ
chỉ trích BRI và nhấn mạnh các nước nhận viện trợ của Trung Quốc có thể sa vào
bẫy nợ, nhưng họ lại quên rằng Trung Quốc cũng mắc nợ rất lớn vì BRI. Các
chuyên gia của CSIS dự đoán rằng ngân sách quốc phòng Trung Quốc sẽ giảm mạnh
vào năm 2020 (China’s Superpower Dreams Are Running Out of Money, Salvatore Babones,
Foreign Policy, July 6, 2020).
Theo một chuyên gia của Hội
đồng Đối ngoại (CFR), chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, hệ lụy của đại dịch
Covid-19, và tăng cường cạnh tranh quân sự làm gia tăng rủi ro xung đột tại Biển
Đông. Nhưng Mỹ có thể ngăn chặn hay làm giảm thiểu xung đột quân sự tại Biển
Đông bằng cách kết hợp sáng kiến ngoại giao với thế răn đe quân sự mạnh hơn (Military
Confrontation in the South China Sea, Oriana Skylar Mastro, CFR,
May 21, 2020).
Nếu Mỹ muốn ngăn chặn
Trung Quốc bá chủ Biển Đông thì họ phải tăng cường răn đe đủ mạnh để Trung Quốc
chùn bước, và phải giúp các nước khu vực mạnh lên để bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Các nhà phân tích cho rằng đến lúc Mỹ phải quay lại hiệp định TPP, và duy trì
áp lực đủ mạnh để đối với Trung Quốc qua chạy đua vũ trang và cạnh tranh chiến
lược tại Indo-pacific, làm Trung Quốc kiệt sức và suy sụp như Liên Xô thời Chiến
tranh Lạnh.
Theo Minxin Pei
(Claremont McKenna College), thói quen tư duy (mindset) làm lãnh đạo Trung Quốc
mắc phải một loạt sai lầm chiến lược tai hại. Vì vậy, chiến lược “tách đôi”
(decoupling) của Mỹ làm lãnh đạo Trung Quốc bất ngờ. (The political logic of
China’s strategic mistakes, Minxin Pei, ASPI Strategist, July 9,
2020).
Năm 2020 chứng kiến Việt
Nam kiểm soát được dịch Covid-19 và tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN
36. Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) dự kiến vào tháng 11/2020 là một cơ hội và
thách thức mới, trong bối cảnh cuối năm Mỹ bầu cử Tổng thống và Việt Nam chuẩn
bị họp Đại hội Đảng. Trong khi Việt Nam tham gia “Bộ Tứ Cộng” (Quad plus), thì
nhóm “ASEAN 4” có vai trò ngày càng quan trọng. Nếu biết tranh thủ cơ hội mới,
Việt Nam có thể “biến nguy thành cơ”, để đón nhận sự dịch chuyển của chuỗi cung
ứng toàn cầu.
---------------------------------------
XEM LẠI
Thanh
Phương -
RFI
Đăng ngày: 06/07/2020 -
13:19
Trong cuộc họp thượng đỉnh trực tuyến ngày
26/06/2020, do Việt Nam tổ chức với tư cách chủ tịch luân phiên ASEAN, các nước
Đông Nam Á đã tỏ lập trường cứng rắn hơn bao giờ hết đối với Trung Quốc trên vấn
đề Biển Đông.
Trong cuộc họp đó, thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, với vai trò chủ trì hội nghị, đã tuyên bố : « Trong
khi toàn thế giới đang phải chống dịch, những hành động vô trách nhiệm và vi phạm
luật quốc tế vẫn tiếp tục diễn ra, tác động đến môi trường an ninh và ổn định của
khu vực ». Tuy không nêu đích danh, nhưng tuyên bố này rõ ràng là nhắm
vào Trung Quốc.
Trong bản tuyên bố chung
khi kết thúc Thượng đỉnh ASEAN 36, lãnh đạo các quốc gia trong khu vực đã nêu mối
quan ngại về những diễn biến gần đây tại Biển Đông và nhấn mạnh tầm quan trọng
của Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS). Đối với họ, UNCLOS 1982 « là
cơ sở để xác định các quyền lợi hàng hải, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi
ích hợp pháp đối với các vùng biển. ». Các lãnh đạo ASEAN một lần nữa
khẳng định các bên phải « giải quyết hoà bình các tranh chấp phù hợp với
luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 ».
Tuyyên bố lần này của
ASEAN vẫn không nêu đích danh Trung Quốc là nước gây ra những sự cố nghiêm trọng
gần đây ở Biển Đông : đưa tàu khảo sát đến cản trở các hoạt động khai thác
dầu khí của Việt Nam và Malaysia, đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam ở gần quần
đảo Hoàng Sa. Nhưng có thể nói là qua tuyên bố nói trên, lãnh đạo các quốc gia
trong ASEAN đã thẳng thừng bác bỏ các yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông của
Trung Quốc.
Như vậy, qua cuộc họp
ngày 26/06, Việt Nam đã có thêm hậu thuẫn trong ASEAN, nhất là từ Philippines,
Malaysia và Indonesia, để đối đầu với Trung Quốc về vấn Biển Đông. Nhưng liệu
khối đoàn kết này có lâu bền không, khi biết rằng cho tới nay ASEAN
vẫn nhiều lần bị chia rẽ trên vấn đề này?
Trong phần tạp chí hôm nay, mời
quý vị nghe bài phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á, Singapore.
RFI : Năm nay là năm mà theo lẽ Việt Nam có thể tranh thủ chiếc ghế chủ tịch
ASEAN để tìm thêm hậu thuẫn của các nước Đông Nam Á trong cuộc đối đầu với
Trung Quốc trên Biển Đông. Nhưng dịch Covid-19 đã tác động như thế nào đến vai
trò chủ tịch của Việt Nam.
Lê Hồng Hiệp : Năm nay, rất đáng tiếc là do đại dịch Covid-19, nhiều hoạt động của Việt
Nam trong năm chủ tịch ASEAN không được tiến hành suôn sẻ. Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN vừa rồi là hội nghị trực tuyến đầu tiên trong suốt lịch sử 50 năm
hình thành của tổ chức này. Việc tổ chức hội nghị trực tuyến như vậy có rất nhiều
hạn chế, ví dụ như không thể tổ chức các cuộc gặp song phương bên lề, sự tham
gia của các phóng viên để đưa tin cũng hạn chế rất nhiều, cho nên tác động hạn
chế hơn rất nhiều so với khi tổ chức hội nghị bình thường.
Tuy nhiên, cũng một điều may mắn là do áp dụng công
nghệ, cho nên Việt Nam đã tổ chức thành công thượng đỉnh vừa rồi và đáng kể
là hội nghị đã đưa ra được bản tuyên bố chung, tuyên bố Chủ tịch, với nhiều nội
dung được cho là phù hợp với lợi ích của Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề
Biển Đông.
.
RFI : Trong tuyên bố chung, các lãnh đạo ASEAN đã khẳng định Công ước LHQ về
Luật Biển UNCLOS phải là cơ sở để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Phải
chăng là các nước ASEAN nay có lập trường dứt khoát hơn với Trung Quốc ?.
Lê Hồng Hiệp : So sánh các bản tuyên bố chung hay tuyên bố của Chủ tịch qua các hội nghị
thượng đỉnh ở các nước khác nhau trong những năm vừa qua, chúng ta thấy luôn
luôn có một số đoạn nói về tình hình Biển Đông. Nội dung các tuyên bố này gần
giống nhau, chỉ sửa một số câu chữ. So với năm ngoái, bản tuyên bố chung và bản
tuyên bố của Chủ tịch có một điểm khác, đó là nhấn mạnh hơn đến vai trò của luật
pháp quốc tế, cụ thể là đề cập tới Công ước LHQ về Luật Biển 1982 UNCLOS. Trước
đây, ASEAN có nói là phải « phù hợp với luật pháp quốc tế », nhưng cụm
từ « luật pháp quốc tế » còn tương đối mơ hồ, chung chung. Năm nay, cụ
thể hơn, họ có nhấn mạnh đến vai trò của Công ước 1982 và bất cứ chỗ nào có nhắc
đến luật pháp quốc tế thì đều đi kèm với công ước này.
Điều này có một ý nghĩa quan trọng : Lâu nay,
các yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông là không phù hợp với UNCLOS và bằng
việc gắn luật pháp quốc tế với Công ước về Luật Biển năm 1982, ASEAN cũng như
Việt Nam đã gián tiếp bác bỏ những yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng
như thể hiện thái độ ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong
vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Đây là một bước tiến, tại vì lâu nay các nước
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng có thái độ không thật sự rõ ràng đối với
các phán quyết này. Ở đây chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của Việt
Nam trong việc dẫn dắt các nước ASEAN đàm phán để mà có thể có một tuyên bố
chung như vậy.
.
RFI : Hiện nay, ngoài Philippines cũng có tiếng nói mạnh mẽ đối với Trung Quốc,
Việt Nam có thể trông chờ vào Malaysia và Indonesia ?
Lê Hồng Hiệp : Từ đầu năm đến tháng 6 vừa rồi, trong
khu vực cũng như Biển Đông đã diễn ra một số sự kiện có thể làm thay đổi quan
điểm của các nước trong khu vực đối với Trung Quốc, ví dụ như Philippines có sự
thay đổi thái độ đối với Trung Quốc, đặc biệt là thông qua hành động ngừng việc
chấm dứt hiệp định lực lượng viếng thăm với Hoa Kỳ. Điều này cho thấy chính quyền
của tổng thống Duterte có sự điều chỉnh trong mối quan hệ với Hoa Kỳ và Trung
Quốc, theo hướng duy trì quan hệ liên minh với Mỹ, và ngừng hoặc làm chậm lại
quá trình điều chỉnh quan hệ với Trung Quốc theo hướng thân thiện hơn.
Trong khi đó, ở Malaysia cũng có sự cố tàu Trung Quốc
quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Malaysia trên vùng thềm lục địa của
họ. Trong trường hợp của Indonesia thì các yêu sách của Trung Quốc với vùng biển
gần quần đảo Natuna của Indonesia cũng đã dẫn đến những phản đối của phía
Indonesia. Những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa
qua đã tạo ra sự nghi ngờ ngày càng lớn của các nước trong khu vực, đặc biệt là
Philippines, Malaysia và Indonesia đối với ý đồ của Trung Quốc ở Biển
Đông.
Tất cả những điều này giúp cho Việt Nam dễ dàng hơn
trong việc vận động các quốc gia này ủng hộ một lập trường thống nhất hơn, cứng
rắn hơn trong ASEAN về vấn đề Biển Đông nói chung, cũng như về Trung Quốc nói
riêng. Có lẻ đây là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho hội nghị thượng đỉnh
ASEAN vừa rồi thông qua được một tuyên bố chung có vẻ như cứng rắn hơn trên vấn
đề Biển Đông cũng như đối với Trung Quốc.
.
RFI : Trong ASEAN vẫn có những bất đồng về Biển Đông, đặc biệt là từ những
nước được xem là thân thiện, hoặc gần như là đồng minh của Trung Quốc, như Cam
Bốt và Lào. Điều đó có thể cản trở ASEAN có một lập trường dứt khoát hơn đối với
Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông trong tương lai?
Lê Hồng Hiệp : Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải cân
nhắc 3 yếu tố. Thứ nhất là các hành động tiếp theo của Trung Quốc trong nửa cuối
năm nay hay trong một, hai năm tới. Nếu như Trung Quốc tiếp tục có những hành động
hung hăn, lấn lướt, gây những bức xúc, phản đối của các nước trong khu vực Biển
Đông, như Philippines, Indonesia, Malaysia, thì xu thế cùng phối hợp để có lập
trường thống nhất cứng rắn với Trung Quốc sẽ ngày càng được củng cố. Như vậy,
tiếng nói của những nước như Cam Bốt và Lào sẽ bị yếu đi, bị kềm chế rất nhiều.
Thứ hai, bản thân Trung Quốc sẽ có những hành động
như thế nào đối với những nước mà họ muốn tăng cường quan hệ hay gây sức ép để
giúp Trung Quốc gây chia rẽ ASEAN. Trong thời gian vừa qua, Cam Bốt và Lào đã
được hưởng lợi rất nhiều từ những hỗ trợ của Trung Quốc, chẳng hạn như trong việc
vay vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng trong thời gian qua, Trung Quốc cũng
đã gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, về chính sách đối ngoại…Liệu Trung Quốc
có thể tiếp tục duy trì những sự hỗ trợ như vậy cho những nước như Cam Bốt và
Lào hay không, để qua đó duy trì ảnh hưởng đối với ASEAN thông qua hai nước
này ? Chúng ta còn phải chờ xem.
Thứ ba là đó là ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với khu vực,
trong bối cảnh mà Trung Quốc và Hoa Kỳ đang gia tăng cạnh tranh chiến lược và đều
coi Đông Nam Á là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng rất quan trọng. Chính vì vậy mà
trong thời gian, Hoa Kỳ đã có những hành động để đối trọng với ảnh hưởng của
Trung Quốc ở khu vực này. Nếu trong thời gian tới, cạnh tranh Mỹ-Trung tiếp tục
như vậy, thì có nhiều khả năng là Hoa Kỳ gây tác động hoặc gây sức ép lên các
nước trong khu vực, đặc biệt là Cam Bốt và Lào, để những nước này có một chính
sách cân bằng hơn trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nếu như sức ép của
Hoa Kỳ thành công thì có lẻ là ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với ASEAN thông qua
Cam Bốt và Lào cũng sẽ bị giảm xuống.
Tuy nhiên, đó là những yếu tố mà chúng ta cần theo
dõi trong tương lai. Trước mắt, tôi tin là Trung Quốc sẽ tiếp tục kiên trì
« chia để trị », tức là sẽ cố gắng gây tác động lên các mắt xích yếu
Cam Bốt và Lào trong ASEAN để thông qua hai mắt xích này can thiệp vào công việc
nội bộ của ASEAN, đặc biệt là trong việc định hình quan điểm, lập trường của khối
này đối với vấn đề Biển Đông.
No comments:
Post a Comment