Dịch giả: Đỗ Kim Thêm
17/07/2020
Với hy vọng về sự phục hồi mạnh mẽ từ cuộc suy
thoái do đại dịch gây ra nhanh chóng mờ dần, các nhà hoạch định chính sách nên
tạm dừng lại và đúc kết những gì cần thiết để đạt được sự phục hồi bền vững.
Các biện pháp ưu tiên trong chính sách cấp bách nhất đã rõ ràng ngay từ đầu,
nhưng chúng sẽ đòi hỏi những lựa chọn khó khăn và thể hiện ý chí chính trị.
Mặc dù có vẻ giống như lịch
sử thời xưa, nhưng chuyện xảy ra không lâu khi các nền kinh tế trên thế giới đã
bắt đầu đóng cửa để đối phó với đại dịch COVID-19. Thoạt đầu của cuộc khủng hoảng,
hầu hết mọi người dự đoán sự phục hồi nhanh chóng theo hình chữ V, họ giả định
rằng nền kinh tế chỉ cần một khoảng thời gian ngắn. Sau hai tháng chăm sóc tận
tình và bơm khối tiền hỗ trợ, nền kinh tế sẽ vực dậy tại các nơi đã bị khủng hoảng.
Đó là một ý tưởng đầy thu
hút. Nhưng hiện nay là tháng Bảy, và sự phục hồi theo hình chữ V có lẽ là một
tưởng tượng. Nền kinh tế hậu đại dịch hầu như không có sinh lực, không chỉ ở
các quốc gia thất bại trong việc xử lý đại dịch (cụ thể là Hoa Kỳ), mà ngay cả ở
những nước đã không bị thiệt hại. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã tiên đoán, đến cuối
năm 2021, nền kinh tế toàn cầu sẽ hầu như không lớn hơn so với cuối năm 2019,
các nền kinh tế Mỹ và châu Âu vẫn sẽ nhỏ hơn khoảng 4%.
Triển vọng kinh tế hiện
nay có thể được xét trên hai cấp độ. Kinh tế vĩ mô cho chúng ta biết chi tiêu sẽ
giảm, lý do là việc cân đối thu chi trong các gia đình và các doanh nghiệp bị
suy yếu, các vụ phá sản sẽ làm tiêu tan vốn liên hệ đến tổ chức doanh nghiệp và
thông tin, tình trạng bất trắc về diễn biến của trận đại dịch và các đối sách
gây ra thái độ phòng ngừa quá mức.
Đồng thời, kinh tế vi mô
cho chúng ta biết, virus hoạt động như một loại thuế trong các sinh hoạt liên
quan đến sự tiếp xúc gần gũi của con người. Như vậy, nó sẽ tiếp tục thúc đẩy những
thay đổi lớn lao trong các khuôn mẫu về tiêu thụ và sản xuất, từ đó sẽ mang lại
sự thay đổi rộng lớn hơn trong cơ cấu.
Cả lý thuyết và lịch sử
kinh tế dạy cho chúng ta biết, một mình các thị trường không có khả năng để xử
lý các chuyển tiếp như vậy, đặc biệt là khi xét về mức độ đột ngột của nó.
Không có cách nào dễ dàng để chuyển đổi nghiệp vụ một nhân viên phi hành thành
kỹ thuật viên cho phòng Zoom. Ngay cả khi chúng ta có thể làm được việc này,
các lĩnh vực hiện đang mở rộng ít đòi hỏi phải sử dụng nhiều nhân công, mà là kỹ
năng nhiều hơn trong các lĩnh vực đang thay thế.
Chúng ta cũng biết, các
biến đổi rộng lớn trong cấu trúc có xu hướng tạo ra một vấn đề truyền thống
theo thuyết của Keynes, do những gì các nhà kinh tế gọi là các hiệu ứng trong
thu nhập và thay thế. Ngay cả trong các lĩnh vực mà con người không tiếp xúc với
nhau đang mở rộng, nó phản ánh sự cải thiện về sức hấp dẫn tương đối, mức tăng
chi liên quan sẽ trội hơn so với mức giảm chi do giảm thu nhập trong các lĩnh vực
bị thu hẹp.
Hơn nữa, trong trường hợp
đại dịch sẽ có một tác động thứ ba: Bất bình đẳng gia tăng. Bởi vì các máy móc
không thể bị nhiễm virus, đối với giới chủ nhân, chúng sẽ trông tương đối hấp dẫn
hơn, đặc biệt là trong các lĩnh vực hợp đồng sử dụng tương đối nhiều lao động
không có kỹ năng. Vì những người có thu nhập thấp phải dành phần lớn mức chi
cho hàng hóa cơ bản hơn so với những người giàu có, bất kỳ sự gia tăng bất bình
đẳng nào do việc tự động hóa sẽ phản tác dụng.
Đứng đầu trong các vấn đề
này, có hai lý do bổ sung cho sự bi quan. Đầu tiên, trong khi chính sách tiền tệ
có thể giúp một số doanh nghiệp giải quyết các khó khăn tạm thời về tiền mặt,
như đã xảy ra trong cuộc Đại suy thoái 2008-09, nó không thể khắc phục các vấn
đề về khả năng thanh toán cũng như kích hoạt nền kinh tế khi lãi suất đã gần bằng
không.
Hơn nữa, tại Hoa Kỳ và một
số quốc gia khác, sự phản đối của phe bảo thủ đối với các khoản thâm hụt và mức
nợ đang gia tăng, sẽ cản trở các biện pháp kích hoạt tài chính cần thiết. Chắc
chắn, những người này đã rất hạnh phúc khi giảm thuế cho các tỷ phú và tập đoàn
vào năm 2017, giải cứu cho thị trường chứng khoán ở Phố Wall vào năm 2008 và
giúp đỡ những doanh nghiệp khổng lồ trong năm nay. Nhưng đó là một điều hoàn
toàn khác để mở rộng bảo hiểm thất nghiệp, chăm lo sức khỏe và hỗ trợ thêm cho
những người dễ bị tổn thương nhất.
Khi cuộc khủng hoảng bắt
đầu, các biện pháp ưu tiên trong ngắn hạn đã thể hiện rõ. Rõ ràng nhất là trường
hợp khẩn cấp y tế phải được giải quyết, chẳng hạn như bằng cách bảo đảm cung cấp
đầy đủ thiết bị bảo vệ cho cá nhân và khả năng của bệnh viện, bởi vì kinh tế
không thể phục hồi cho đến khi virus được kiểm soát. Đồng thời, các chính sách
bảo vệ cho những người cần thiết nhất, cung cấp tiền mặt (thanh khoản) để ngăn
chặn các vụ phá sản không cần thiết và duy trì mối liên hệ giữa công nhân và
doanh nghiệp là cần thiết để bảo đảm nhanh chóng tái khởi động khi thời gian
cho phép.
Nhưng ngay cả với những
điểm trọng yếu rõ ràng này trong chương trình nghị sự, có những lựa chọn khó thực
hiện. Chúng ta không nên cứu vớt cho các doanh nghiệp, như các nhà bán lẻ theo
kiểu cũ, họ vốn dĩ đã suy sụp trước cuộc khủng hoảng; làm như vậy chỉ đơn thuần
là tạo ra những thây ma, mà cuối cùng, làm hạn chế sự năng động và tăng trưởng.
Chúng ta cũng không nên bảo
lãnh cho các doanh nghiệp đã mắc nợ quá mức để họ có thể kham chịu được bất kỳ
một cú sốc nào. Quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ hỗ trợ thị trường
trái phiếu đầy rác với chương trình mua tài sản chắc chắn là một sai lầm. Thật
vậy, đây là một ví dụ trong đó rủi ro đạo đức thật sự là một mối quan tâm có
liên quan; các chính phủ không nên bảo vệ các doanh nghiệp do sự điên rồ của
chính họ.
Vì Covid-19 có vẻ sẽ tồn
tại lâu dài, chúng ta có thời gian để bảo đảm rằng, việc chi tiêu phản ánh các
ưu tiên của chúng ta. Khi đại dịch xảy ra, xã hội Mỹ đã bị đe dọa bởi sự bất
bình đẳng về chủng tộc và kinh tế, tiêu chuẩn sức khỏe giảm sút và sự phụ thuộc
mang tính hủy diệt vào nhiên liệu hóa thạch. Giờ đây, chi tiêu của chính phủ
đang được mở rộng trên quy mô lớn, công chúng có quyền yêu cầu các doanh nghiệp
nhận được sự giúp đỡ đóng góp cho công bằng xã hội và chủng tộc, cải thiện sức
khỏe và chuyển sang nền kinh tế lo cho môi trường và dựa trên tri thức hơn. Những
giá trị này phải được phản ánh không chỉ trong cách chúng ta phân bổ công quỹ
mà còn trong các điều kiện đặt ra cho người nhận.
Như các đồng tác giả của
tôi và tôi chỉ ra trong một nghiên cứu gần đây, chi tiêu công khi được định hướng
tốt, đặc biệt là trong đầu tư vào chuyển đổi để bảo vệ môi trường, có thể kịp
thời sử dụng nhiều lao động (giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp tăng vọt) và
mang tính kích hoạt cao hơn, thí dụ dùng nhiều tiền chu cấp hơn giảm thuế.
Không có lý do kinh tế tại sao các quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, không thể áp dụng
các chương trình phục hồi quy mô, bền vững, mà nó sẽ khẳng định đưa kinh tế đến
các xã hội mà họ tuyên bố theo đuổi, hay ít nhất dẫn đến chiều hướng này.
***
Joseph E. Stiglitz, đoạt giải Nobel về Kinh tế học, Giáo sư Đại
học Columbia, Kinh tế trưởng tại Học viện Roosevelt, Cựu Phó chủ tịch, Kinh tế
trưởng của Ngân hàng Thế giới.
Cuốn sách mới nhất của
ông là “People, Power, and Profits: Progressive Capitalism for an Age of
Discontent“.
No comments:
Post a Comment