Tác giả: Thor Steinhovden
Dịch giả: Hoàng
Thủy Ngữ
13/07/2020
“Khi nói đến chiến thắng
trong đấu trường chính trị, những ai hành xử đúng đắn ít thành công hơn những
người có quan điểm thực tế thống trị chiến trường” – Robert Bothwell,
National Committee for Responsive Philanthropy.
*
Mỗi buổi sáng, vào lúc 9
giờ 30’, các cánh cửa trong nhà trường tự động khóa lại. Thứ Sáu ngày
14/12/2012 cũng không ngoại lệ.
Sáu phút sau, một giọng
nói hốt hoảng gọi đến trung tâm báo động địa phương – ai đó đã điện thoại cho
911 từ văn phòng trường tiểu học ở Sandy Hook. “Có tiếng nổ lớn tại lối đi
chính”, tiếng nói sợ hãi lại vang lên.
Một phút sau, có báo cáo
cửa kính lối đi chính bị vỡ. Phó hiệu trưởng Natalie Hammond và nhà tâm lý học
Mary Sherlach của trường đi kiểm tra xem chuyện gì đã xảy ra. Sherlach không
bao giờ trở lại.
Chỉ hơn hai phút, sau cú
điện thoại lần đầu gọi đến trung tâm báo động, các nhân viên cảnh sát đầu tiên
đã có mặt tại trường. Càng lúc càng nhiều người điện thoại đến trung tâm báo động
cho biết họ nghe thấy tiếng súng và đang tìm cách giấu các học sinh nhỏ tuổi nhất
trong lớp. Vài phút sau một sĩ quan cảnh sát báo qua điện đài là họ đã tìm thấy
người chết.
Mười lăm phút sau, tính từ
cú gọi điện đầu tiên đến 911, cuộc tấn công chấm dứt. Adam Lanza, 20 tuổi, đã bắn
xuyên qua các cửa kính trường học, giết chết 20 đứa trẻ từ sáu đến bảy tuổi và
6 phụ nữ làm việc trong trường. Mẹ của Lanza nằm chết tại nhà. Bà bị chính con
mình bắn chết. Kẻ giết người hàng loạt kết thúc cuộc tắm máu bằng cách tự sát
khi bị cảnh sát đối đầu.
Adam Lanza bắn chết
mẹ ruột rồi mang súng vào trường Tiểu học Sandy Hook, bắn chết thêm 26 người,
sau đó kết liễu đời mình ngày 14/12/2012. Nguồn: Des D.Y.
Cuộc thảm sát tại Sandy Hook Elementary School là một trong những vụ giết
người hàng loạt thảm khốc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, nhưng không là vụ duy nhất.
Cuộc thảm sát Columbine đã để lại 12 xác chết tại trường trung học ở
Colorado và được cho là khởi đầu của một loạt các vụ nổ súng trong học đường. Virginia
Tech shooting năm 2007 là vụ nổ súng trong trường học trầm trọng nhất từ
trước đển nay, với 32 người chết.
Những năm kế tiếp, các thảm
kịch tương tự tiếp tục xảy ra ở Mỹ. Vài tháng trước cuộc bầu cử năm 2016, Omar Mir Seddique Mateen
đã tấn công một hộp đêm ở Orlando và giết chết 49 người. Vụ thảm sát Las Vegas năm 2017
là vụ giết người hàng loạt lớn nhất nước Mỹ, với 58 nạn nhân và trong vụ Parkland shooting năm 2018,
Nicholas Cruz, 19 tuổi, đã bắn chết 17 người.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào
con số trong bối cảnh lớn hơn, tổng số những vụ bắn giết ở Hoa Kỳ đã giảm bớt từ
những năm 1990, nhưng các vụ nổ súng giết người hàng loạt là hiện tượng ngày
càng tăng. Kể từ năm 2006,
đã có trên 45 vụ nổ súng hàng loạt, trong đó có bốn hay nhiều người bị
thương hoặc chết. Trong khoảng 40 năm, đã xảy ra hơn 80 lần.
Bất kỳ nỗ lực nào muốn hạn
chế các biến cố như vậy bằng kế hoạch kiểm soát vũ khí đều bị đình chỉ, phần lớn
do sự can thiệp của tổ chức vận động hành lang của Hiệp hội Súng trường Quốc
gia (NRA: National Rifle Association).
Từ thập niên
1990, đảng Cộng hòa đã nhận được rất nhiều tiền của NRA nên họ khó có thể đưa
ra các kế hoạch kiểm soát vũ khí chặt chẽ hơn. Những thay đổi mà NRA đã phê chuẩn tập trung vào việc tăng cường kiểm
tra sức khoẻ tâm thần, một hệ thống điều tra lý lịch kỹ lưỡng hơn, và kiểm soát
nghiêm ngặt việc sử dụng cò lẩy (bump stocks) giúp vũ khí bán tự động có thể bắn
nhanh gần như vũ khí tự động.
Sau vụ thảm sát Parkland,
Donald Trump đã nói đến chuyện tăng giới hạn tuổi đối với việc mua bán một số
loại súng bán tự động, nhưng rồi cũng chẳng có đề xuất cụ thể nào. Bây giờ cũng
như mọi lần trước, sau vụ thảm sát Parkland, những người yêu chuộng vũ khí mong
muốn có cuộc tranh luận về tình trạng sức khoẻ tâm thần hoặc vũ trang cho giáo
viên.
Wayne
LaPierre, người cầm đầu NRA, đã
từng nói sau vụ thảm sát Sandy Hook: “Chúng ta không thể để mất thời gian
quý báu trong một cuộc thảo luận chính trị vốn không đi tới đâu”. Và LaPierre
muốn là được.
Quy định về vũ khí
trước thời của NRA
NRA là một trong những
nhóm lợi ích thành công nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong vòng 50 năm, tổ chức
này đã có thể biến cuộc tranh luận về vũ khí trở thành một trong những vấn đề
tranh cãi lớn nhất trong chính sách quốc gia.
Cao bồi trên thảo nguyên,
xã hội đen trong các thành phố lớn và những người hùng trong phim hành động của
Hollywood đã góp phần tạo ra ấn tượng vũ khí là thứ người Mỹ cần nhiều nhất. Thật
ra điều này chỉ đúng phần nào thôi.
Thời gian sau cuộc chiến
tranh giải phóng, vào cuối những năm 1700, Hoa Kỳ rất chật vật về chuyện thiếu
vũ khí. Quốc gia mới thành lập có khoảng 36000 ngàn quân nhưng chỉ một nửa
trong số đó có vũ khí hoạt động được. Đồng thời, Hoa Kỳ bị các kẻ thù hùng mạnh
bao vây: Người Anh, Tây Ban Nha và Pháp hiện diện rất đông trên lục địa.
Do đó, giới lãnh đạo quốc
gia đã ký hai mươi hợp đồng với các nhà sản xuất tư nhân để họ sản xuất thêm vũ
khí. Chính nhà nước Mỹ đã trợ cấp cho các nhà sản xuất vũ khí để đối mặt với
các đối thủ nước ngoài, điều mà ngày nay hiếm khi được nói đến.
Thị trường trong nước tăng tốc với sự xuất hiện của “Manifest Destiny”
– học thuyết giữa những năm 1800. Đây là tư tưởng chính trị được đảng Dân chủ đặc biệt quảng bá: Thượng
đế cho người Mỹ cái quyền chinh phục toàn thể Bắc Mỹ.
Cuộc xâm chiếm những vùng
đất mới phía Tây của thực dân Mỹ để mở rộng biên giới đã gặp sự kháng cự của
cả dân bản địa lẫn địa hình hoang dã – súng ống hiện đại trở thành giải pháp
của thực dân Mỹ.
Mặc dù vũ khí có vai trò
quan trọng nổi bật trong quốc gia tân lập này, nhưng không phải ai cũng đi
loanh quanh với khẩu súng bên hông. Miền Tây hoang dã không phải lúc nào cũng
hoang dã. Câu trả lời cho sự vô pháp luật đặc trưng trong thời đại cao bồi là
đôi khi có thể chính quyền địa phương yêu cầu cư dân để súng và các vũ khí khác
tại văn phòng cảnh sát trưởng. Khi xong việc ở trong phố, người ta đến đó nhận
lại vũ khí của mình.
Vũ khí có thể cần thiết
với một số người nhưng không phải với tất cả mọi người. Quy định về vũ khí trước
và sau cuộc nội chiến thường để ngăn chặn những “kẻ xa lạ” có vũ trang: Người
nhập cư, dân bản địa, người bị bệnh tâm thần, thành viên nghiệp đoàn và người Mỹ
gốc Phi châu. Địa chủ
da trắng nam giới theo đạo tin lành là thành phần có quyền ưu tiên sở hữu và
mang súng.
NRA được thành lập vào năm 1871 bởi hai cựu chiến binh đã chiến đấu cho các tiểu bang miền Bắc
trong cuộc nội chiến. Cả hai, William Church và George Windgate, rất bực bội trước khả năng yếu
kém trong việc sử dụng súng của các chiến hữu.
Mục đích của NRA là hỗ trợ
quân đội bằng cách huấn luyện thêm cho những binh lính này. Tiểu bang New York
thậm chí còn tặng thêm vũ khí để giúp tổ chức khởi động. Dần dần, NRA phát triển
lớn hơn và nhiệm vụ của họ mở rộng sang việc huấn luyện cho các thợ săn và những
người có thú chơi súng. Rất hiếm khi tổ chức dính dáng đến chính trị.
Trong thời kỳ cấm đoán rượu
bia từ 1920 đến 1933, một số băng đảng đã làm nhà chức trách Mỹ điên đầu, trong
đó có nhóm John Dillinger.
Để chống lại bọn tội phạm
như Dillinger, lần đầu tiên Quốc hội đưa ra đạo luật về vũ khí có hiệu lực trên
toàn quốc, bao gồm việc bán súng ngắn và người mua phải trả phí cao hơn khi
mua súng máy. Trong buổi hội thảo cứu xét dự luật, Karl T. Frederick, lãnh đạo
NRA, tuyên bố, không phải ai cũng cần phải có súng – một tuyên bố khiến ông gặp
vấn đề sau này.
Khi Frederick làm chứng
trước một ủy ban ở Quốc hội, ông vẫn phủ nhận việc siết chặt kiểm soát vũ khí
là vi hiến trong khi hiện nay, nó là lập luận cốt lõi của NRA khi họ chống lại
các quy định chặt chẽ hơn. Sau này, Frederick viết rằng, quyền cầm súng không
nên biện luận bằng hiến pháp, mà nên bằng cách phổ biến thông tin hướng dẫn
người dân có những hiểu biết tốt hơn khi sở hữu súng.
NRA thời đó đã ủng hộ một
số quy định về việc bán vũ khí nhưng phản đối những hạn chế của chính phủ đối với
việc sử dụng súng.
Tổ chức này không dùng
cách vận động hành lang, nhưng ngay từ thập niên 1930, đã thành lập một văn
phòng chuyên trách cập nhật các đạo luật mới về vũ khí, cả ở cấp tiểu bang và
quốc gia. Nếu văn phòng phát hiện những xu hướng thắt chặt, NRA yêu cầu các
thành viên của mình gửi thư đến các đại diện dân cử của họ.
Một bài báo trên tờ
Jackson Daily News từ năm 1963 đã kết luận rằng, khả năng của NRA trong việc huy
động thành viên viết thư như vậy là “một trong những lý do” tại sao Hoa Kỳ có
những đạo luật về vũ khí lỏng lẻo hơn các quốc gia khác.
NRA chiếm
Washington D.C.
Thứ Sáu ngày 22/11/1963,
tổng thống John F. Kennedy bị bắn chết ở Dallas. Sau đó cùng ngày, Lee Harvey
Oswald bị bắt. Oswald khai đã mua khẩu súng trường từ một cửa tiệm ở Chicago, bằng
cách đặt hàng qua đường bưu điện. Cửa hàng này quảng cáo bán vũ khí trên một tạp
chí dành cho thành viên của NRA.
Vụ giết người lần này
cùng những vụ ám sát nhiều nhà lãnh đạo chính trị khác khiến Quốc hội cố tìm
cách thắt chặt các quy định mua vũ khí. Cùng khoảng thời gian đó, phó chủ tịch
NRA viết rằng, tổ chức chống lại các cải cách lớn như vậy, nhưng ủng hộ việc cấm
bán vũ khí cho trẻ vị thành niên, tội phạm và những “phần tử không thể chấp nhận
được”.
Ngoài ra, các nhà vận động
vũ khí hành lang cũng có cái nhìn tích cực đối với một số quy định về vũ khí bất
hợp pháp. NRA giờ đã có
640.000 thành viên và tổ chức đang trên đường trở thành một đối thủ mạnh
hơn để đối phó với kế hoạch kiểm soát vũ khí.
Đồng thời, cuộc thảo luận
về vai trò của NRA trong lãnh vực chính trị cũng diễn ra sôi nổi trong nội bộ
tổ chức này. Các bất ổn xã hội trong thập niên 1960 đã thúc đẩy người Mỹ mua
súng ngắn ngày càng nhiều vì sự an toàn của chính họ. Số lượng các vụ giết người
và số lượng người sở hữu vũ khí tăng lên cùng lúc và, trong nội bộ NRA, ngày
càng nhiều thành viên bắt đầu lập luận tổ chức cần phải có vai trò chính trị và
quyết liệt hơn.
Harlon Carter là một trong những thành viên tin rằng, NRA nên theo đuổi một chính
sách khác. Carter lớn lên ở biên giới Mexico và ngay khi còn là thiếu niên đã bắn
chết một đứa trẻ 15 tuổi cầm dao quấy rối mẹ mình. Carter bị kết án giết người
nhưng bản án bị đảo ngược do một lỗi thủ tục. Sau này ông trở thành người cầm đầu
cảnh sát biên giới Hoa Kỳ. Giờ đây, Carter nhận nhiệm vụ lên kế hoạch vận động
hành lang cho những người ủng hộ vũ khí và từ vị trí này ông đã làm cú “đảo
chính” giành quyền lực trong tổ chức.
Đêm 22/05/1977, NRA mở hội
nghị thường niên với tất cả các thành viên tại Cincinnati ở Ohio. Trong nỗ lực
kìm hãm xung đột nội bộ, ban lãnh đạo đề xuất dời trụ sở chính từ Washington
D.C về Colorado. Mục đích để hướng NRA thành tổ chức sinh hoạt dã ngoại. Đây là
đề xuất hoàn toàn tự nhiên vì NRA luôn có nhiều thợ săn là thành viên.
Kế hoạch thất bại. Carter
và đồng bọn chiến thắng trong cái được gọi là “cuộc nổi loạn Cincinnati”. Các
thành viên chính trị đảo chính giành quyền quản trị và tự phong vai trò lãnh đạo.
Harlon Carter trở thành giám đốc mới của tổ chức và nhanh chóng bảo đảm cho NRA
một vị trí vững chắc ở Washington. Khi Ronald Reagan trở thành ứng cử viên tổng
thống của đảng Cộng Hòa, NRA lần đầu tiên lao vào chiến dịch tranh cử và ủng hộ
nhân vật được cánh hữu ưa chuộng.
Sự chuyển hướng mau chóng
đem lại nhiều phần thưởng. Chỉ sau một năm, trong nhiệm kỳ tổng thống của
Reagan, NRA đã có được 30 triệu dollar trong ngân sách thường niên và khối lượng
thành viên tăng lên gấp ba lần. Khi Harlon Carter được bầu lại vài năm sau đó,
tờ New York Times viết rằng, NRA là một trong những tổ chức vận động hành lang
quyền lực nhất nước Mỹ.
Theo Carter, mục tiêu của
tổ chức là “trở nên mạnh đến mức không một chính trị gia nào quan tâm đến sự
nghiệp của mình lại dám thách thức mục đích của chúng tôi”. Chẳng bao lâu
sau, chuyện này trở thành hiện thực. Năm 1986, Quốc hội thông qua dự luật ngăn
chặn nhà nước thiết lập sổ đăng ký sở hữu chủ vũ khí trên toàn quốc. Báo chí
dành nhiều vinh dự cho NRA trong đạo luật này.
Tuy vậy, vào cuối thập
niên 1980, Quốc hội lại đưa ra một cải cách mới và nghiêm khắc hơn. Khi muốn
mua súng, người ta phải qua thủ tục kiểm tra lý lịch áp dụng trên toàn quốc và
thời gian chờ đợi là 5 ngày. Luật còn cấm bán súng trường tự động. Mặc dù thất
bại, NRA vẫn đưa được vào trong đạo luật một điều khoản tên là Sunset Clause,
theo đó nếu không gia hạn, luật sẽ hết hiệu lực sau 10 năm (chuyện này cũng đã
xảy ra). Ngay cả khi đã thất bại, những người đấu tranh cho vũ khí vẫn tìm cách
khiến các quy định mới về vũ khí tự biến mất theo thời gian.
Luận thuyết báo động
Trong giai đoạn sau khi
Clinton được bầu vào Nhà Trắng năm 1992, có khoảng 600.000 thành viên mới đã
đăng ký gia nhập NRA. Số lượng thành viên tăng lên phần lớn có lẽ vì một luận
thuyết báo động đã trở thành thương hiệu của NRA. Luận thuyết này liên quan đến
việc sở hữu vũ khí vì lý do an toàn và quyền tự vệ. Đó là quyền tự vệ cá nhân
trong trường hợp bị trộm cắp tại tư gia và ngay cả khi nhà nước trở thành một
chính quyền chuyên chế ở Hoa Kỳ (một thuyết âm mưu của cánh hữu rất phổ biến). NRA cảnh báo rằng quyền sở hữu
vũ khí sẽ bị đe dọa nếu đảng Dân chủ thắng cử hay nếu luật về vũ khí nghiêm ngặt
hơn, trở thành đề tài trên báo.
Theo tuyên bố của tổ chức
này, đó là bước đầu trên con đường tước quyền tự do của đại đa số quần chúng.
Kiểu thông điệp như vậy được liên tục lặp đi lặp lại bởi các chính trị gia đảng
Cộng Hòa và truyền thông bảo thủ. Và nó có kết quả. Barack Obama được gọi là
“tay bán súng giỏi nhất nước Mỹ” bởi vì các quan điểm chính thức của ông trong
việc thắt chặt luật pháp đã thúc đẩy người đã sở hữu súng từ trước mua thêm
nhiều vũ khí, trong thời gian ông ở tòa Bạch Ốc.
Sau vụ Parkland năm 2008,
NRA cho biết, họ phải quay ngược trở về tận năm 2003 để tìm ra cái tháng họ đã
thu được số tiền lớn tương đương như vậy. Tổ chức đã lợi dụng cơ hội tung ra
chiến dịch chiêu mộ thêm 100.000 thành viên mới vì “mối đe dọa đối với tu
chính án hiến pháp thứ nhì chưa bao giờ lớn hơn”. Điều này có nghĩa là
NRA đã tìm ra cách củng cố vị trí của mình, cả khi cuộc thảo luận vũ khí thuận
lợi cho họ lẫn lúc họ gặp môi trường tranh luận khó khăn hơn.
Kinh doanh vũ khí từ lâu
đã là “chuyện làm ăn lớn” (big business) nhưng thị trường này ngày càng ít
khách hàng. Giữa những năm 2007 và 2013, số lượng vũ khí sản xuất tăng từ 4
triệu đến 11 triệu mỗi năm. Sự gia tăng này góp phần rất lớn vào việc lưu hành
hàng trăm triệu vũ khí ở Mỹ, có lẽ còn nhiều hơn tổng số dân cư trong nước. Số
lượng thống kê rất ít chính xác vì vào năm 1996, NRA và đảng Cộng hòa đã
theo luật định không cho phép Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
(CDC: Center for Disease Control and Prevention) tiến hành nghiên cứu về tội phạm
sử dụng vũ khí. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, số người sở hữu vũ khí không
tăng.
Vào thập niên 1970, khi
NRA tiến vào D.C., khoảng một nửa dân số Mỹ đã mua súng. Con số này giảm mạnh từ
đó. Doanh số tăng là do những người thật sự thích vũ khí mua thêm. Một nghiên cứu
của Harvard cho thấy, mỗi người này, còn được gọi là siêu sở hữu chủ, có trung
bình 8 khẩu súng.
Trên thực tế, số vũ khí họ
có chỉ chiếm ba phần trăm trong tổng số vũ khí đang lưu hành trong nước. Điều
này cho thấy những người đấu tranh, đồng thời cũng sản xuất vũ khí và NRA đầy
quyền lực chỉ đại diện cho quyền lợi của số lượng cử tri càng lúc càng giảm.
NRA quả quyết tổ chức có
hơn 5 triệu thành viên đóng lệ phí, bằng khoảng 0,5% tổng dân số Hoa Kỳ. Bù lại,
nhóm này tham gia tích cực vào các cuộc tranh luận công cộng nhằm giúp NRA duy
trì vị thế quyền lực. Quyền lực này tập trung chính trong đảng Cộng hòa.
Cả Donald Trump và phó
tổng thống Mike Pence đều đã diễn thuyết trong cuộc họp thường niên của tổ chức
năm 2018. Quyền lực không chỉ ở trong tay cấp lãnh đạo đảng mà còn được phân
chia cho cấp dưới tùy theo thứ bậc. Các chính trị gia cả hai cấp địa phương lẫn
quốc gia gắn liền với tổ chức qua sự kết hợp giữa củ cà rốt và roi da. Cà rốt
xuất hiện dưới hình thức quyên góp tiền bạc và hỗ trợ chính thức các ứng cử
viên. Roi da bao gồm việc công bố, cho điểm mức độ thiện cảm của chính trị gia
đối với việc sở hữu vũ khí. Tổ chức không quan tâm đến các chiến dịch bôi nhọ̣
hay chụp mũ công khai những người vượt ngoài các giới hạn đã định sẵn. Bất kỳ nỗ
lực nào nhằm thắt chặt đạo luật về vũ khí đều bị xem là sự phản bội.
NRA cũng thành công trong
việc gây ảnh hưởng đến các cuộc tranh luận về vũ khí. Chẳng có gì lạ khi nghe
những lập luận như sau: “Chúng ta phải có khả năng tự bảo vệ mình trong trường
hợp bị bọn khủng bố tấn công hay nếu nhà nước quay lại chống chúng ta”. Một
lập luận phổ biến khác là: “Điều duy nhất có thể ngăn chặn một ‘bad guy’
mang vũ khí là một ‘good guy’ có vũ khí”. Các lập luận này được cử tri yêu
chuộng vũ khí, giới truyền thông bảo thủ và các chính trị gia Cộng hòa sử dụng
liên tục.
Các cảnh báo trên có giọng
điệu của bi kịch. Chúng tạo ra ấn tượng bất kỳ sự thay đổi nào trong đạo luật
về vũ khí đều có thể kết thúc bằng cái chết hay sự chuyên chế. Kiểu biện luận
này gây ra nỗi sợ hãi trong cử tri, từ đó làm cuộc thảo luận thêm căng thẳng bởi
vì khi đề cập đến sự sống và cái chết, rất ít khi có được sự thỏa hiệp cân bằng.
Thành công của NRA dẫn đến
hậu quả các chính trị gia Cộng hòa và cử tri bị dính chặt trong vũng lầy chính
trị. Cho dù bao nhiêu vụ xả đạn giết người xảy ra ở trường học, dường như tổ chức
này vẫn quyết tâm duy trì vị thế của mình. Việc này làm ranh giới giữa hai đảng
Cộng hòa và Dân chủ càng đậm nét và góp phần phân hóa chính trị nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên, không chỉ một
mình NRA góp phần vào việc chia đôi cuộc thảo luận xã hội. Cánh hữu trong xã hội
Mỹ kêu gọi chiến tranh với câu “God, Guns and Country” (Thượng đế, súng đạn và
đất nước). Mặc dù NRA rất mạnh, họ vẫn phải chia sẻ quyền lực với các nhóm tôn
giáo: Kitô hữu truyền giáo.
Trích dịch từ sách: Det Amerikanske Marerittet (The American
Nightmare)
No comments:
Post a Comment