Võ
Văn Quản - Luật Khoa
06/07/2020
Joseph Stalin từng nói một
câu đại ý rằng: Vấn đề không phải là những người đi bầu, vấn đề là ai đếm phiếu.
Thật vậy, tại Liên Xô, và
tại nhiều quốc gia cùng dòng máu, bầu cử phổ thông thật ra chỉ được sử dụng để
hợp pháp hóa, hay chính danh hóa các quyết định nhân sự do nội bộ đảng cộng sản
đưa ra. Thậm chí, ngay cả khi đại đa số cử tri không ủng hộ một ứng cử viên nào
đó, các đảng độc quyền vẫn tìm cách để bảo đảm vị trí nhân sự như đã định.
Nhưng còn sự tình ở Hoa Kỳ
thì sao? Với chế độ bầu cử phổ thông tại 50 tiểu bang, rồi lại kèm với quá
trình bỏ phiếu đại cử tri; ai bỏ phiếu, ai đếm phiếu, cơ chế bầu cử do ai quyết
định… đều là những câu hỏi đáng giá ngàn vàng trong thời buổi dân chủ thế giới
đi xuống như hiện nay.
1. Nguyên tắc chỉ đạo vận hành
bầu cử Hoa Kỳ là gì?
Hoa Kỳ là một quốc gia rộng
lớn, có nền kinh tế lớn nhất và sở hữu quân đội đông đảo, thiện chiến nhất thế
giới. Tuy nhiên, điều này không nên khiến bạn đọc hiểu nhầm rằng Hoa Kỳ là một
quốc gia thống nhất, được tập trung quản lý từ trên xuống bởi một chính quyền
liên bang có sức mạnh áp đảo.
Bạn nên kỳ vọng điều hoàn
toàn ngược lại.
Do cấu trúc nhà nước liên
bang, kèm theo đó nỗi lo ngại của các nhà lập quốc về một chính quyền trung
ương quá mạnh, gần như bất kỳ vấn đề gì bạn nghĩ rằng sẽ được áp dụng, vận hành
một cách hoàn toàn thống nhất trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, đều không đúng.
Luật Thương mại? Thuộc thẩm
quyền tiểu bang.
Trợ cấp và các chương
trình y tế? Thuộc thẩm quyền tiểu bang.
Kể cả Luật Hình sự? Thuộc
thẩm quyền tiểu
bang.
Và điều tương tự diễn ra
trong vấn đề bầu cử tổng thống.
50 “tiểu quốc”
trong Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ảnh: ourwhitehouse.org.
Dù là cuộc bầu cử quan trọng
nhất và được quan tâm theo dõi nhiều nhất trên thế giới, mỗi tiểu bang sẽ “mạnh
ai nấy lo” trong quy chuẩn hay cách thức bỏ phiếu, bảo vệ phiếu và đếm phiếu.
Trong thực tế, các nhà lập
quốc Hoa Kỳ chỉ trao phạm vi thẩm quyền rất giới hạn cho chính quyền liên bang
khi tổ chức bầu cử. Tổ hợp của Điều khoản bầu cử (Elections Clause) trong Hiến
pháp Hoa Kỳ, Tu chính án thứ 12 và Tu chính án thứ 20, giới hạn quyền lực của
chính quyền liên bang chỉ trong vài công đoạn bầu cử cuối cùng (như quy trình bầu
của chế định đại cử tri). Vì vậy, chính quyền các tiểu bang vẫn toàn quyền định
đoạt thời điểm, quy trình và phương pháp bầu cử phổ thông đối với cả cuộc bầu cử
tổng thống – phó tổng thống lẫn nhị viện.
Nói không ngoa, Hoa Kỳ có
50 tiểu bang thì có đến 50 quy
trình và phương pháp bầu cử phổ thông khác nhau.
2. Các tiểu bang kiểm soát và
quy định về quá trình bầu cử ra sao?
Như vậy đến đây, nếu nhìn
kỹ vào bản chất, bạn đọc có thể biết quá trình bầu cử tổng thống tại từng tiểu
bang thật
ra là quá trình tiểu bang đó bầu chọn ra các vị đại cử tri của mình mà
thôi. Và pháp luật của từng bang cũng có quy định riêng về việc đề cử và sau đó
là bầu đại cử tri.
Về việc đề cử đại cử tri
thì hầu hết các bang đều giống nhau. Theo nghiên cứu của Hiệp hội Các Ngoại
trưởng cấp tiểu bang Hoa kỳ (National
Association of Secretaries of State), đề cử đại cử tri cho mỗi ứng cử viên
đảng nào sẽ do đại hội đảng đó quyết định. Ví dụ, tại Floria, pháp luật liên
bang cho phép tiểu bang này sở hữu 25 phiếu đại cử tri. Do đó, đại hội của Đảng
Cộng hòa Floria sẽ đề xuất 25 đại cử tri để ủng hộ cho ứng viên của đảng mình;
và đại hội của Đảng Dân chủ Floria cũng sẽ làm điều tương tự.
Thủ tục và quy trình đăng
ký bầu cử cũng là câu chuyện riêng của từng bang. Về mặt đăng ký bầu cử, bang
North Dakota là bang duy nhất không yêu cầu công dân của mình phải đăng ký mới
có quyền bầu.
Nhiều bang trong lịch
sử cũng từng lợi dụng thẩm quyền này của mình để phân biệt đối xử đối
với các nhóm thiểu số. Trong đó, khét tiếng nhất có thể kể đến “thuế đi bầu” (poll
taxes) hay bài kiểm tra mù chữ (literacy
tests)… thường được dùng để loại trừ cử tri da đen có xuất phát điểm thấp về
kinh tế và học vấn.
Cử tri Mỹ đi bầu. Ảnh:
Getty.
Hay thủ tục để bầu cử vắng
mặt (absentee voting), bầu cử sớm (early voting)… cũng rất khác nhau tại các tiểu
bang.
Để được bầu
cử vắng mặt, một số tiểu bang sẽ yêu cầu cử tri cung cấp lý do và chứng cứ,
trong khi một số tiểu bang khác lại cho rằng đây là quyền đương nhiên của cử
tri mà không cần phải chứng minh. Riêng năm tiểu bang gồm Colorado, Hawaii,
Oregon, Washington và Utah lại có quy
định pháp lý cho phép việc sử dụng hệ thống bầu cử bằng thư tín rộng
rãi cho mọi cuộc bầu cử liên bang hay tiểu bang. Những cử tri đã đăng ký chỉ cần
chờ tại nhà. Phiếu bầu, thông tin bầu cử sẽ được gửi đến tận cửa.
Ngay cả phương pháp đếm
phiếu bầu cũng không thống nhất ở các tiểu bang. Từ đếm tay, đến quét
quang học (optical scan), đến hệ thống ghi nhận phiếu bầu điện tử (Direct
Recording Electronic – DRE), nhiều người cho rằng mô hình bầu cử tổng thống của
Hoa Kỳ không đơn giản là đa dạng, mà phải gọi là hỗn loạn mới đúng.
3. Nhân sự vận hành tiến trình
bầu cử là ai?
Tại Việt Nam, có lẽ bạn đọc
đã quá quen với hình ảnh các Sở Nội vụ hướng
dẫn quy trình bầu cử, các ủy ban nhân dân địa phương tổ chức và vận
hành quá trình bầu cử, cùng theo đó là sự “giám sát”
của Mặt trận Tổ quốc… Dù các ủy ban bầu cử từ trung ương đến địa phương được Luật
bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp trao quyền, đây đều là những
cá nhân, cơ quan do Đảng Cộng sản Việt Nam triệt để lãnh đạo. Hiển nhiên, câu hỏi
về độ tin cậy của quá trình bầu phiếu, kiểm phiếu, đếm phiếu… dành cho các ứng
viên ngoài đảng, trong trường hợp họ vượt qua được các vòng hiệp thương lằng nhằng,
vô cùng đáng suy ngẫm.
Ở Hoa Kỳ, cách tiếp cận về
tiến trình bầu cử rất khác.
Không có bất kỳ một tổ chức
nhà nước trung ương nào đứng ra tổ chức và giám sát nguồn nhân lực phục vụ quá
trình bầu cử. Trong khi đó, cơ cấu tổ chức nhà nước tiểu bang cũng thiếu vắng
mô hình quản lý bầu cử.
Điều này dẫn đến một thực
tiễn vô cùng thú vị tại Hoa Kỳ: Những cá nhân trực tiếp tổ chức, quan sát, hỗ
trợ xuyên suốt hóa trình bầu cử, hoặc thậm chí là đếm phiếu, đa phần lại là… những
tình nguyện viên.
Nhân viên bầu cử
(ngồi) hướng dẫn cử tri đi bầu ở Philadelphia năm 2020. Ảnh: Reuters.
Được gọi dưới nhiều tên gọi như
“poll worker”, “election official”, “election officer”, “election judge”,
“election clerk” và nhiều tên gọi khác (mà người viết tạm gọi ở đây là các nhân
viên bầu cử); những thành viên của cộng đồng được lựa chọn sẽ có nhiệm vụ giải
thích về quyền bầu cử, tiếp nhận và xử lý thông tin đăng ký bầu cử, trao phiếu
bầu và hướng dẫn quy trình, hướng dẫn sử dụng các công cụ bỏ phiếu, tập hợp phiếu,
thống kê hay kiểm đếm phiếu…
Vì là thành viên của
các cộng
đồng dân cư khác nhau, họ có thể là y tá, điều dưỡng, nhân viên dịch vụ
ăn uống, kỹ thuật viên máy tính, và thậm chí là sinh viên, học sinh trung
học phổ thông. Trước khi bắt tay vận hành cuộc bầu cử, họ sẽ được đào tạo sơ lược
về pháp luật Hoa Kỳ nói chung và pháp luật bầu cử Hoa Kỳ nói riêng, tinh thần
cũng như thủ tục cần tuân thủ và thao tác sử dụng những công cụ kỹ thuật nếu
có.
Do đó, các cuộc bầu cử trở
thành một điểm đến tốt cho những công dân mong muốn học hỏi thêm về nền chính
trị Hoa Kỳ, cũng như đóng góp sức mình cho lợi ích chung. Nhưng điều này cũng
gây ra căn bệnh khá hy hữu cho hoạt động bầu cử của Hoa Kỳ là đôi khi chính quyền
tiểu bang không tìm
ra đủ các cá nhân nhiệt huyết, đủ sức khỏe và mong muốn tình nguyện
làm công tác vận hành quá trình bầu cử.
4. Ai giám sát quá trình bầu cử
Hoa Kỳ?
Một cuộc bầu cử minh bạch
là một cuộc bầu cử mà cá nhân nào, tổ chức độc lập nào cũng có không gian và cơ
hội giám sát tiến trình mà cuộc bầu cử đó diễn ra. Bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ
luôn mở cửa cho các hoạt động quan sát, đánh giá và bình luận.
Tuy nhiên, do tính phân
quyền cao độ mà chúng ta nhắc đến ở trên, quy định pháp luật về số lượng người quan
sát, vị trí quan sát các hoạt động bỏ phiếu hay kiểm phiếu, nhóm và loại quan
sát viên nào được phép tiếp cận tiến trình bầu cử thì vẫn tùy vào lựa chọn của
từng tiểu bang.
Theo đánh giá của người
viết, nghiên
cứu của Trung tâm Carter (do cựu tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter sáng lập)
tổng hợp và tối giản hóa quy định pháp lý liên quan của từng tiểu bang một cách
dễ tiếp cận nhất cho bạn đọc phổ thông và bạn đọc bên ngoài nước Mỹ.
Theo đó, có ba nhóm quan
sát chính được ghi nhận trong pháp luật bầu cử của các tiểu bang, gồm: nhóm
quan sát viên công dân theo đảng phái (partisan citizen observers); nhóm quan
sát viên công dân phi đảng phái (non-partisan citizen observers) và nhóm quan
sát viên quốc tế (international nonpartisan observers).
Pháp luật của hầu như tất
cả các tiểu bang đều cho phép quan sát viên công dân theo đảng phái tham gia
quan sát tiến trình bầu cử tổng thống (cũng như các cuộc tổng tuyển cử khác). Mục
đích của các quan sát viên theo đảng phái là nhằm đảm bảo rằng quy trình và các
bước tiến hành bầu cử không có khúc mắc hay vấn đề gì đáng ngại cho quyền và lợi
ích hợp pháp của chính đảng của mình. Tập quán hiện nay của các đảng chính trị
Hoa Kỳ là cử các “poll watchers/ challengers” đến quan sát quá trình bỏ phiếu tại
một địa điểm nhất định, từ đó ghi nhận và thậm chí là khiếu nại tại chỗ nếu họ
cho rằng có những hành vi mờ ám có thể làm sai lệch quá trình bầu cử. Nhìn
chung đây là nhóm xuất hiện thường xuyên nhất, sôi động nhất, và ở góc độ nào
đó là hiệu quả nhất ở các điểm bỏ phiếu, đếm phiếu.
Quan sát viên của
OSCE đang quan sát cuộc bầu cử Mỹ ngày 8/11/2016 ở Washington D.C. Ảnh: Getty.
Nhóm quan sát viên công
dân phi đảng phái lại ít phổ biến trong pháp luật tiểu bang hơn.
Thường là thành viên của
các tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ, hoặc là những công dân nhiệt huyết, mục
tiêu của nhóm quan sát viên này là nhằm phát hiện các thiếu sót, sai phạm, từ
đó bảo vệ sự công minh nói chung của tiến trình bầu cử tại Hoa Kỳ. Hiện có 35
tiểu bang và Quận Columbia tạo điều kiện thời gian và không gian để các quan
sát viên công dân phi đảng phái có thể tiếp cận và kiểm tra tiến trình bầu cử.
Nhóm quan trọng cuối cùng
là nhóm quan sát viên quốc tế, với 33 tiểu bang và Quận Columbia có quy định
pháp luật tiếp nhận họ.
Các nhóm quan sát viên quốc
tế tiếp cận với tiến trình bầu cử với mục tiêu sản xuất ra các báo cáo chuyên
nghiệp và đáng tin cậy nhằm đánh giá sự chính trực và minh bạch của hệ thống bầu
cử quốc gia. Trong một số trường hợp khác, các nhóm quan sát đại diện quốc gia
cũng có thể tham gia. Năm 1990, Hoa Kỳ tham gia vào Tổ chức An ninh và Hợp tác
Châu Âu (OSCE) và cam kết mở rộng khả năng tham gia quan sát bầu cử Hoa Kỳ của
các quốc gia thành viên. Từ năm 2002 đến nay, OSCE đã quan sát ngẫu nhiên tổng
cộng sáu cuộc bầu cử phổ thông ở Hoa Kỳ với kết quả tốt.
Nhìn người nghĩ ta, hiện
Việt Nam không là thành viên của các tổ chức minh bạch bầu cử nào. Việc cho
phép một tổ chức nước ngoài vào quan sát bầu cử tại Việt Nam sẽ không phải là một
chuyện đơn giản, trừ khi tổ chức đó thân với chính quyền.
5. Quy trình bầu cử Hoa Kỳ có
hoàn hảo?
Với các thông tin bài viết
cố gắng truyền tải, có thể thấy quy trình bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ có điểm mạnh
và điểm yếu, cùng những đặc trưng không phải quốc gia nào cũng có thể học tập
theo.
Một trong những điểm yếu
rõ ràng, nhưng cũng là đặc trưng không đâu có, chính là tính phân quyền rất cao
của việc vận hành quá trình bầu cử nói chung và bầu cử tổng thống – phó tổng thống
nói riêng.
Trên mặt giấy tờ, sự phân
quyền này đảm bảo tự do nhất định cho người dân và tiểu bang trong việc lựa chọn
phương thức bầu cử của họ, từ đó tách bạch quyền lực địa phương – trung ương,
tránh việc hình thành một chính quyền toàn trị.
Song với thực tế hiện nay,
với sự can thiệp đã được chứng
minh của người Nga vào các cuộc bầu cử địa phương cùng những rủi ro
công nghệ thông tin quá lớn, rất nhiều cử tri Hoa Kỳ đang tự đặt câu hỏi rằng
liệu thiếu vắng sự hỗ trợ kỹ thuật an ninh bầu cử liên bang có thật sự là một lựa
chọn chính sách sáng suốt.
Không chỉ vậy, việc vận
hành các công đoạn bầu cử bằng tình nguyện viên cũng là một canh bạc lớn. Nó chỉ
có thể thực hiện tại một quốc gia mà văn hóa chính trị vừa chủ động, vừa cởi mở
như Hoa Kỳ.
Học tập để nắm bắt và
công nhận sự độc đáo của hệ thống bầu cử chính trị Mỹ là vô cùng cần thiết,
nhưng chúng ta sẽ cần đầu tư nhiều hơn để biến sự độc đáo đó trở thành một công
cụ hữu dụng cho các cuộc bầu cử tại Việt Nam.
No comments:
Post a Comment