Thoạt nhìn, nhà ga sân bay quốc tế Trường Thủy Côn
Minh có hình dạng tựa cánh chim bằng đang vút bay trong gió, kỳ thực đấy là rặng
Ngọc Long Tuyết Sơn cách điệu. Nó có màu vàng nâu rất chi là ăn nhập với ánh nắng
chiều nhàn nhạt nơi miền núi đồi vào buổi hôm mình tới.
Mình đến đây như một sự tình cờ. Đón mình là một cô
tre trẻ nhỏ bé nhưng đã có chồng tên là Diệp Triệu Khánh (叶兆庆), lấy nick là Kathy cho dễ
giao thiệp quốc tế. Nàng ở đâu đó cùng chồng con giữa miền sơn cước cách Côn
Minh năm mươi dặm đường và làm việc cho Đài truyền hình kỹ thuật số di động Vân
Nam (YMDTV), một thành viên của Tập đoàn Truyền thông Vân Nam (YMG).
Màn hình LED và bảng quảng cáo ở sân bay, dọc đường
phố và nơi trụ sở YMG nhắc mình Trung Quốc đang hướng tới kỷ niệm 70 năm ngày
Mao lập ra nước CHND Trung Hoa sau Quốc – Cộng nội chiến lần hai. Hình ảnh về
thành tựu kinh tế, kỹ thuật, quân sự, vị thế chính trị của Trung Quốc không ngừng
được phô trương bên cạnh các tòa nhà cao tầng đang nối nhau mọc lên xen giữa những
vườn rau xanh ngắt nơi lãnh địa của Mạnh Hoạch, của Đoàn gia, của Điền Quốc,
Nam Chiếu một thuở xa xưa đã tan thành tro bụi.
Có khoảng hai mươi người từ Việt Nam, Lào,
Campuchia, Thái Lan và Myanmar – gồm nhà báo trong các đài truyền hình, quan chức
các bộ liên quan đến truyền thông, viễn thông, công nghệ – tham dự hội thảo và
chuỗi hoạt động trao đổi về truyền hình kỹ thuật số kéo dài mười một ngày tại
Côn Minh và Lệ Giang. Sự kiện được giới thiệu là nằm trong “Năm Trung Quốc –
ASEAN giao lưu truyền thông” mà mình ngẫu nhiên có mặt và rất nhanh sau khi
khai mạc, mình bèn nhận ra rằng hồn cốt của nó liên quan mật thiết tới chiến lược
mang tầm toàn cầu của Trung Quốc – Sáng kiến Vành đai và Con đường, vốn trước
đây từng được gọi là “Một Vành đai, Một Con đường” – Nhất đái, Nhất lộ (一带 一路).
Ông Lý Đào (李涛), Giám đốc Cơ quan quản lý Phát thanh và Truyền
hình Vân Nam, nói trong phát biểu chào mừng là những hoạt động giao lưu, sẻ
chia, hợp tác về truyền thông vùng Lan Thương – Mekong sẽ giúp thúc đẩy mạnh mẽ
hơn nữa sự kết nối trong khu vực theo tinh thần Nhất đái, Nhất lộ mà Chủ tịch Tập
Cận Bình đã đề ra. Tiếp đó, ông Hòa Á Ninh (和亚宁), Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch YMG, khẳng định công ty ông coi trọng việc
hợp tác, mở rộng hoạt động xuống Đông Nam Á. Ông cho biết YMG có các dự án đang
được triển khai tại Myanmar, Lào và Campuchia, với sự ủng hộ của chính phủ các
nước này. “Sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa chúng ta sẽ mang lại lợi ích
cho tất cả các bên”, ông nói, và nhắc lại đấy chính là điều mà Sáng kiến Vành
đai và Con đường (BRI) luôn hướng tới.
Đọc trong lời lẽ của hai vị có thể thấy một chính
sách từ Trung ương đã được các cán bộ cấp tỉnh thấm nhuần và triển khai nhịp
nhàng, mạch lạc nhường nào.
NHẤT ĐÁI, NHẤT LỘ
Nhất đái, Nhất lộ vốn xuất phát từ các sáng kiến Vành
đai kinh tế Con đường Tơ lụa (Vành đai) và Con đường Tơ lụa trên biển Thế kỷ 21
(Con đường). Phần cứng của sáng kiến bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
giao thông, viễn thông, năng lượng, logistics…, để làm bệ đỡ cho phần mềm gồm
các hoạt động giao thương; các hiệp định kinh tế, hợp tác; các định chế tài
chính hỗ trợ và từ đó khởi sinh các kết nối về văn hóa, xã hội ngày càng bền chặt.
Về mặt phạm vi thì Nhất đái, Nhất lộ bao trùm châu
Á, châu Âu, châu Phi và một phần châu Mỹ, nói chung là toàn cầu, với khoảng 60
nước, chiếm tổng dân số tầm 65% và GDP khoảng 45% toàn cầu.
Trực quan sinh động thì thế này, “Vành đai”
bao gồm các kết nối từ Trung Quốc sang các nước Trung Á như Kazakhstan,
Uzbekistan… rồi nối tới châu Âu. Một trong những ví dụ cụ thể là tuyến đường sắt
từ Nghĩa Ô ở tỉnh Chiết Giang bên bờ Thái Bình Dương đến London và Madrid ở rìa
Đại Tây Dương mà tàu hàng đã chạy xình xịch mấy năm qua. Một nhánh khác kết nối
Trung Quốc với Mông Cổ, chạy qua Nga rồi đến châu Âu. Tuyến này hồi năm ngoái
mình đã có dịp trải nghiệm. Cảm giác xuyên qua sa mạc Gobi mênh mông bát ngát rồi
lao vun vút giữa những rừng bạch dương bạt ngàn đến nay vẫn còn phê. Giờ mình
đang nghiên cứu đi tuyến đường sắt từ Hà Nội sang Nam Ninh, đến Trịnh Châu rồi
rẽ qua Bảo Kê, lên Urumqi sau đó vượt biên giới sang Kazakhstan, lên thăm biển
chết Aral và sau đó vượt biển Caspia để đến châu Âu (hoặc tới Nam Ninh, sang
Côn Minh rồi lên Bảo Kê và đi tiếp như phương án trên để sang châu Âu).
“Vành
đai” còn bao gồm các kết nối từ Trung Quốc tới
Bangladesh, Pakistan và các nhánh tỏa xuống Đông Nam Á, chẳng hạn dự án đường sắt
xuyên Lào để nối Trung Quốc với Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Về mặt
địa lý, Việt Nam nằm trên hành lang của Nhất đái, Nhất lộ.
Liên quan đến “Con đường”, sẽ có một hành
lang kinh tế biển từ Trung Quốc xuống Đông Nam Á, sang Nam Á, Tây Nam Á, châu
Phi và châu Âu. Nhiều cảng biển, khu hậu cần… đã và sẽ được xây dựng, ở
Myanmar, Sri Lanka, Pakistan, châu Phi…
Một hướng khác của “Con đường” đó là tuyến đường
“Biển băng” từ Trung Quốc ngược lên Bắc Băng Dương ở phía bắc nước Nga rồi qua
châu Âu. Theo mình sự thành bại của tuyến đường biển này một phần lớn do ông trời.
Nếu khí hậu trái đất ấm lên như cảnh báo của giới khoa học, Biển Bắc tan băng,
tuyến này chắc chắn sẽ thông suốt, giúp rút ngắn hải trình từ châu Á sang châu
Âu nhiều lần.
Để đảm bảo vốn cho Nhất đái, Nhất lộ, Trung Quốc lập
ba thiết chế tài chính bao gồm Quỹ Con đường Tơ lụa (SRF), Ngân hàng
Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á (AIIB) và Ngân hàng Phát triển mới (NDB).
Nguồn tài chính sẽ đến từ nhiều phía, bởi một mình Trung Quốc không đảm đương nổi
khi mà nhu cầu về phát triển hạ tầng kỹ thuật trong khu vực Vành đai – Con đường
mỗi năm ước tính lên tới 900 tỉ USD.
Nhất
đái, Nhất lộ kể từ khi ông Tập khai sinh vào năm 2013 cho đến khi được đổi
thành Sáng kiến Vành đai
và Con đường đã gặp phải phản ứng trái chiều. Nhiều nước hưởng ứng
với các cấp độ khác nhau, như Kazakhstan, Sri Lanka, Pakistan… Điểm chung của
các nước này là cần vốn và mối quan hệ hợp tác của Trung Quốc để phát triển. Một
số nước khác cũng bày tỏ sự ủng hộ, như Nga, Indonesia, Thụy Sĩ, Hi Lạp và đặc
biệt mới đây, Ý đã trở thành nước đầu tiên trong nhóm G7 đồng ý tham gia.
Cho rằng (và hẳn là như vậy) BRI được sử dụng để tạo
ra ảnh hưởng chính trị, mở rộng hiện diện quân sự và tạo ra một môi trường chiến
lược có lợi cho Trung Quốc, nhiều nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và một
phần EU (Pháp và Đức) không tham gia và/hoặc đã công bố hoặc triển khai các kế
hoạch của mình. Rõ ràng là các nước này không bao giờ muốn mua thẻ thành viên
trong một câu lạc bộ mà Trung Quốc làm chủ nhiệm.
BRI là một
sáng kiến không tiền khoáng hậu về ý tưởng, quy mô và tham vọng. Nó vẽ ra những chân trời xán lạn, nhưng đồng thời nó cũng bị chỉ trích kịch
liệt bởi nhiều lẽ, trong đó có việc Trung Quốc sẽ sử dụng BRI để khiến các nước
khác trở nên phụ thuộc hơn.
Một trong những điều được cảnh báo nhiều nhất là bẫy
nợ. Các quốc gia nghèo sử dụng vốn vay của Trung Quốc để phát triển hạ tầng kỹ
thuật, sau đó không thể trả nợ, sẽ buộc phải nhượng bộ lợi ích quốc gia cho chủ
nợ. Ví dụ rõ nhất là trường hợp của Sri Lanka với cảng Hambantota, với khoản đầu
tư xây dựng giai đoạn 1 là 361 triệu USD, trong đó có 85% vốn vay từ Trung Quốc.
Khi đi vào hoạt động, cảng Hambantota gặp nhiều khó khăn, với doanh thu năm
2016 chỉ đạt 11,81 triệu USD, trừ đi chi phí hoạt động thì còn lời 1,81 triệu
USD, không đủ trả nợ. Do đó Sri Lanka buộc phải giao quyền khai thác thương mại
trong 99 năm cho China Merchants Port Holdings, một công ty đại chúng có cổ phần
chi phối của nhà nước.
Công ty này dự kiến sẽ đầu tư hai giai đoạn tiếp
theo của dự án, với tổng vốn lên tới 1,5 tỉ USD, mà một khi hoàn thành thì diện
tích của nó sẽ rộng tới 16 km2 (nói cho dễ hiểu thì bằng tổng diện tích quận 3
+ quận 1 + quận 4 của Sài Gòn), có thể đậu 33 tàu cùng lúc, trở thành cảng biển
lớn nhất Nam Á. Việc Trung Quốc “sở hữu” cảng Hambantota làm dấy lên lo ngại họ
sẽ sử dụng vào mục đích quân sự. Chính quyền Sri Lanka đã không ngớt trấn an rằng
Trung Quốc chỉ làm thương mại thôi nhưng biết đâu đấy. Trước mắt thì chuyện này
đang bị dân tình trong nước phản đối. Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản cũng bày tỏ quan ngại.
Với Việt Nam mà nói, BRI là một bài toán khó nhằn:
tham gia cũng kẹt mà không cũng kẹt. Nếu tham gia, Việt Nam sẽ nằm trong hành
lang phát triển hạ tầng kỹ thuật cùng các chương trình hợp tác kinh tế của BRI.
Nhưng nếu tham gia sâu, Việt Nam có thể trở thành con nợ và sự lệ thuộc vào
Trung Quốc lúc đó không còn là nguy cơ.
Khác với Sri Lanka, vốn cách xa Trung Quốc và thuộc
vào một nền văn minh, một hệ tư tưởng khác, ít có nợ nần cũng như ân oán giang
hồ với Trung Quốc, Việt Nam có biên giới đất liền, biên giới biển chung với
Trung Quốc vốn đang trầm tích nhiều giằng co, lại ở trong cùng một nền văn minh
Sinic (Văn minh Á Đông, mình dẫn theo phân loại của Samuel P. Huntington), về mặt
hình thức thì cùng chung hệ tư tưởng và lâu nay bị coi là lệ thuộc Trung Quốc về
chính trị, một khi tham gia BRI, sử dụng tài lực, vật lực, nhân lực, công nghệ
Trung Quốc, khả năng phụ thuộc sẽ càng cao. Lúc đó, các vấn đề như chủ quyền
trên bộ và dưới biển, sự độc lập về chính trị… sẽ càng trở nên khó giải quyết.
Chưa kể việc tìm kiếm sự đồng thuận từ trong nước cũng rất chi là khó khăn.
PHỦ SÓNG ĐÔNG NAM Á
Nàng Diệp Triệu Khánh và cô bạn Dương Tú Chi (杨秀芝), một cô gái trẻ người Hán chưa chồng, cùng ông sếp dẫn tụi mình đi tham
quan cơ ngơi Tập đoàn Truyền thông Vân Nam. Nó là một tổ hợp đồ sộ, với những
tòa nhà cao mấy chục tầng chứa trong lòng những bảo tàng, trường quay, phòng
làm việc, hội họp, phòng điều kiển, các trung tâm nghiên cứu công nghệ, phòng hợp
tác, đối ngoại, đào tạo, ẩm thực. Các hoạt động sản xuất nội dung truyền hình
(tin tức, phim, chương trình giải trí…), viết ứng dụng OTT, phát triển công nghệ
truyền hình số mặt đất… bắt đầu từ nơi đây rồi được triển khai khắp Vân Nam – một
tỉnh có diện tích 390.000 km2 (lớn hơn Việt Nam) và dân số tầm 50 triệu người –
và vượt ra ngoài biên giới Trung Quốc. Trong chiến lược phát triển, YMG đặt mục
tiêu phủ sóng tới 3-5 quốc gia Đông Nam Á trong vòng năm năm, tính từ 2018.
Ở một căn phòng trên tầng hai mươi ba của tòa nhà
chính, ông sếp của hai bạn Khánh – Chi chỉ cho tụi mình xem những bản đồ mô tả
hoạt động của YMG ở Đông Nam Á. Theo đó, tập đoàn này đã đầu tư tại Myanmar,
đang hợp tác với các công ty của Lào và Campuchia để cung cấp dịch vụ truyền
hình kỹ thuật số mặt đất. Người Trung Quốc cung cấp hạ tầng kỹ thuật, công nghệ,
nhân sự và cả nội dung (cung cấp bản quyền phim, chương trình truyền hình, hỗ
trợ sản xuất…) để triển khai dịch vụ đến từng nhà tại Campuchia và Lào. Ông sếp,
mình quên mất tên, cho biết dịch vụ truyền hình kỹ thuật số mặt đất của công ty
hiện đã phủ sóng tới 40% dân số Lào. Ông còn chỉ cho mình những ứng dụng OTT mà
công ty ông phát triển bằng tiếng Lào. Ở Campuchia tình hình cũng tương tự.
Tại Việt Nam, dù YMG chưa thâm nhập như tại hai quốc
gia kia, nhưng sự hiện diện của Trung Quốc trong mảng viễn thông, truyền hình
thì đã tới tận các hộ gia đình. Không tin các bạn thử lật cái thiết bị phát
wifi của Viettel hoặc công ty nào đó lắp cho gia đình bạn và đọc chữ bên dưới
xem. Rất có thể nó bao gồm các chữ “Made in China” hoặc “Huawei”, “ZTE”.
Sau một hồi giới thiệu, từ phòng điều khiển của công
ty, qua màn hình LED, vị sếp YMG cho tụi mình xem cách ông trao đổi với với các
nhân sự Lào và Campuchia đang làm việc ở các văn phòng tại hai nước kia. Mình
chợt mường tượng ra cách mà Trung Quốc ảnh hưởng tới các nước thông qua Nhất
đái, Nhất lộ. Một mai kia, khi mà các con nợ đủ lệ thuộc, khi mà sự ảnh hưởng của
Trung Quốc đủ lớn, họ có thể ngồi nơi đây để điều khiển các nước kia, như vị sếp
tại YMG đã làm demo cho mình xem vậy. Đấy là mình ngô nghê hóa vấn đề. Thực tế
hẳn không đơn giản như vậy.
Hình : https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10162045621020612&set=pcb.10162045644945612&type=3&theater
No comments:
Post a Comment