12.04.2016
Trong
bài “Can đảm và sáng suốt” kỳ trước, tôi có khen những lời
phát biểu trước Quốc hội của ba đại biểu Võ Thị Dung, Trương Trọng Nghĩa và Lê
Văn Lai. Nhận định của họ vừa chính xác vừa sâu sắc. Phát biểu một cách công
khai những nhận định ấy trước diễn đàn Quốc hội là một điều dũng cảm, rất đáng
khen ngợi. Tuy nhiên, ở đây, có hai điều cần chú ý. Thứ nhất, cả ba người đều
không đi xa hơn việc ghi nhận sự kiện. Họ không đi sâu vào việc truy tầm nguyên
nhân của các vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam: sự lãnh đạo độc tôn và đầy sai lầm
của đảng Cộng sản. Thứ hai, những phát biểu của họ tuy mới lạ trên diễn đàn Quốc
hội nhưng lại không có gì mới lạ ở ngoài xã hội. Nói cách khác, những điều họ
nói chúng ta đã từng nghe rất quen thuộc trong các cuộc chuyện trò giữa những
người dân với nhau.
Tôi có dịp gặp khá nhiều trí thức Việt Nam sang Úc. Tất cả đều thấy rõ những thử thách mà Việt Nam đang đối diện.
Tôi có dịp gặp khá nhiều trí thức Việt Nam sang Úc. Tất cả đều thấy rõ những thử thách mà Việt Nam đang đối diện.
- Thứ
nhất là nguy cơ xâm lấn của Trung Quốc không những bằng quân sự trên biển đảo
mà còn bằng con đường kinh tế nhằm lũng đoạn thị trường và làm tha hoá con người
Việt Nam.
- Thứ
hai là quốc nạn tham nhũng càng lúc càng phổ biến và trầm trọng ở mọi nơi và mọi
cấp.
- Thứ
ba là kinh tế càng ngày càng kiệt quệ, ngân sách bị bội chi, nợ công thì chồng
chất.
- Thứ
tư là, về phương diện xã hội, nạn kẹt xe và tai nạn giao thông rất cao, thực phẩm
bị nhiễm độc, gây ra những chứng bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư thuộc loại
nhiều nhất thế giới.
- Thứ
năm là sự băng hoại của đạo lý, sự xuống cấp của giáo dục, quan hệ giữa người với
người càng lúc càng trở nên lạt lẽo, ai cũng chỉ biết lo cho chính bản thân
mình và vô cảm trước những thử thách và nguy hiểm lớn lao của đất nước.
Tất cả những vấn đề tôi tóm tắt ở trên, hầu như ai cũng biết. Người sống ở hải ngoại biết. Người sống trong nước cũng biết, thậm chí, biết còn rõ và sâu hơn cả những người hiện đang sống ở hải ngoại. Tất cả các bài viết phê phán Việt Nam từ trước đến nay, dưới nhiều hình thức khác nhau, không thể vượt qua được những nhận xét có tính bao quát ấy. Thế nhưng, ở đây lại nảy ra một vấn đề: tại sao những chuyện ai cũng biết ấy lại không dẫn đến bất cứ một hành động nào nhằm làm thay đổi hiện trạng tại Việt Nam? Tại sao mọi ước muốn dân chủ hoá Việt Nam vẫn lâm vào bế tắc?
Theo tôi, có hai lý do chính:
Tất cả những vấn đề tôi tóm tắt ở trên, hầu như ai cũng biết. Người sống ở hải ngoại biết. Người sống trong nước cũng biết, thậm chí, biết còn rõ và sâu hơn cả những người hiện đang sống ở hải ngoại. Tất cả các bài viết phê phán Việt Nam từ trước đến nay, dưới nhiều hình thức khác nhau, không thể vượt qua được những nhận xét có tính bao quát ấy. Thế nhưng, ở đây lại nảy ra một vấn đề: tại sao những chuyện ai cũng biết ấy lại không dẫn đến bất cứ một hành động nào nhằm làm thay đổi hiện trạng tại Việt Nam? Tại sao mọi ước muốn dân chủ hoá Việt Nam vẫn lâm vào bế tắc?
Theo tôi, có hai lý do chính:
- Thứ
nhất, mọi người cứ cho việc thay đổi hiện tình chính trị Việt Nam là nhiệm vụ của…
người khác. Người khác đó là ai? Không nói ra nhưng hầu như mọi người đều cho
đó là trách nhiệm của giới lãnh đạo. Dường như mọi người đều quên bẵng câu châm
ngôn đã thành truyền thống lâu đời: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Không chừng đó là hậu quả của chính sách tuyên truyền thâm độc của chính quyền
và đảng cầm quyền lâu nay: “Đồng bào đừng lo, đã có đảng và nhà nước
lo”. Điều oái oăm là ngay cả giới lãnh đạo cũng có tâm lý ấy.
Còn nhớ,
vào đầu năm 2014, trong một cuộc họp báo tại Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng từng hùng hồn tuyên bố “Không đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển
vông”. Nghe rất sướng tai. Nhưng lời phát biểu ấy ấy hoàn toàn không biến thành
hành động. Nguyễn Tấn Dũng cũng không hề cố gắng để biến nó thành hành động.
Không chừng ông xem việc cụ thể hoá nhận xét ấy là nhiệm vụ của… người khác.
Trương
Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước, cũng vậy. Trong suốt nhiệm kỳ của ông, ông nhiều
lần lên án tệ nạn tham nhũng. Ông ví tham nhũng như một bầy sâu tàn phá
đất nước. Nhìn bản đồ tham nhũng thế giới, trong đó, Việt Nam chiếm một vị
trí rất cao, ông “buồn lắm, xấu hổ lắm”. Nhưng ông cũng không hề biến việc bài
trừ tham nhũng thành một chính sách hoặc tìm cách tiến hành các chính sách ấy một
cách hữu hiệu. Ông chỉ than thở. Hết lần này đến lần khác. Trong cả nhiệm kỳ.
Dường như với ông, việc thực hiện các nỗ lực bài trừ tham nhũng là việc của người
khác. Không dính dáng gì đến ông cả.
- Lý do
thứ hai khiến mọi người, sau khi đã nhận thức được đúng đắn tình hình Việt Nam
mà vẫn bất động, theo tôi, là sự tuyệt vọng. Người ta chỉ hành động khi có niềm
tin. Nhưng niềm tin vào tương lai của đất nước thì hoàn toàn tắt ngấm. Không ai hy vọng là Việt Nam có thể thoát
ra khỏi vòng kim cô của Trung Quốc. Không ai hy vọng là nạn tham nhũng tại
Việt Nam sẽ biến mất hoặc giảm thiểu. Không ai hy vọng chính phủ sẽ vực dậy được
kinh tế, tránh tình trạng bội chi, kìm hãm nợ công, cải thiện nền giao thông, y
tế và giáo dục trong nước. Tâm trạng ấy được thể hiện rõ nhất là qua câu nói cửa
miệng của mọi người: “Cái nước mình nó thế”. Tôi đã từng phân tích và phê
phán câu nói ấy: Nó vừa sai vừa thể hiện tâm lý đầu hàng.
Xưa, Việt
Nam không thế. Ngay ở miền Nam, trước năm 1975, Việt Nam cũng không như
thế. Sự khốn cùng và bế tắc
của Việt Nam hiện nay không nằm ở tính cách hay bản chất của người Việt Nam. Nó
nằm ở chỗ khác: lãnh đạo. Nó thuộc về
chính trị chứ không phải là dân tộc
tính.
Chính
hai tâm lý vừa tuyệt vọng vừa cho việc cứu nước là nhiệm vụ của người khác đã
biến mọi người, dù nhận thức đúng, vẫn trở thành dửng dưng, vô cảm và bất lực
trước những hiểm hoạ mà đất nước đang đối diện. Muốn thay đổi tình trạng ấy, vấn
đề không phải là thay đổi nhận thức mà là thay đổi tâm lý. Để mọi người không
chờ đợi vào đảng hay nhà nước mà phải tự mình gánh vác lấy trách nhiệm.
--------------------------------
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog
cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng
không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment