M&M
Tuesday,
April 5, 2016 2:51:19 PM
Bài
liên quan
------------------
LGT:
Trong
cuộc sống có nhiều chuyện mình muốn nói với ai đó, nhưng lại không thể nói trực
tiếp được. Không nói được với nhau thì hãy viết cho nhau. Âu đó cũng là cơ hội
để giải tỏa những tâm tư, những nỗi niềm. Mục “Viết Cho Nhau” do phóng viên Ngọc
Lan phụ trách. Thư từ xin gửi về: Người Việt (Viết Cho Nhau), 14771 Moran St.,
Westminster, CA 92683, hay email: Ngoclan@nguoi-viet.com
Bài
viết “Bidong – Ra đi và trở lại” của tác giả La Quốc Tâm khiến tôi nhớ lại ngày
tháng trên đảo này. Với tôi, đó là giai đoạn đẹp nhất trong đời mình.
Nhớ
ngày đầu tiên bước lên đảo, sau khi làm thủ tục nhập trại, lãnh mỗi người một
cái chén nhựa màu cam, muỗng, đũa để ăn cơm, vài bịch gạo to bằng bao Ziploc loại
lớn bên này, và vài hộp đồ ăn, gia đình tôi được dẫn đến “căn nhà” đầu tiên.
Nhà không cửa, chia vách với nhà hai bên, không vách trước và sau. Trống hoách.
Bây giờ quên là làm sao mình thay đồ lúc đó. Nhà chỉ vỏn vẹn một cái ván chiếm
nửa căn nhà và cái bếp củi.
Một
góc trại tị nạn Pulau Bidong xưa (Hình: www.refugeecamps.net)
Vừa
vào nhà thì các anh Thiện, anh Minh và Đức ở nhà cạnh bên chạy qua thăm hỏi. Rồi
người mang qua cho cái thùng chứa nước, người cho cái nồi. Rồi các anh dắt ra
cái giếng cạn trước nhà, chỉ cho cách giòng cái thùng thiếc hình khối chữ nhật
để múc từ dòng nước chảy giữa hai phiến đá. Các anh dặn tới, dặn lui rằng phải
cẩn thận, đừng để dây rớt xuống giếng mà khổ cả lũ. Rồi các anh chỉ cho cách đốt
củi, cách nấu cơm bằng lửa củi. Rồi các anh cho chén dầu ăn, chén muối, chén đường
và chỉ cách làm món ăn từ đồ hộp lỏng bỏng hai ba miếng thịt bò.
Nhớ
đêm đầu tiên khó ngủ, lạ chỗ một phần, nhớ má và hai đứa em gái nhỏ ở Việt Nam
một phần, nhưng phần lớn có lẽ vì phải nằm trên mấy khúc cây tròn ráp lại thành
giường.
Nhớ
cái đêm nhà bên, gồm một cặp vợ chồng trẻ với lũ em trai trạc tuổi mình ca hát
vang trời trong tiếng đàn ghi-ta hòa lẫn với tiếng đập xuống giường và tiếng vỗ
tay, “Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn, đường dài ngút ngàn chỉ một
trận cười vang vang,” “Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời, đồng cỏ nào xanh ngát
lưng trời,” “Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ, có phải tôi là người giống
nòi khinh,” “Kính thưa thầy đây bài hình học của con, những đường cong đường thẳng
đều có gài mìn,”...
Nhớ
một buổi sáng lặng người, cổ nghẹn lại, chảy nước mắt khi nghe trên loa “Này
công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng.”
Nhớ
những ngày mới lên đảo, bước chân khập khễnh, lảo đảo vì “say đất” sau 4 ngày,
5 năm đêm lắc lư theo ghe vượt sóng.
Nhớ
cái chợ nho nhỏ trước khu vực phỏng vấn của Cao Ủy và các phái đoàn đệ tam quốc
gia.
Nhớ
những hình ảnh trên hàng rào về vòng xoắn, về kế hoạch hóa gia đình, mà lúc đó
mình chẳng hiểu là gì.
Nhớ
ông Mỹ Ramsey cao nghều nghệu phỏng vấn bàn hai, mà theo chị (quên tên) nói
chính là nhân vật người Mỹ trong tấm bích chương “o du kích nhỏ giương cao
súng, thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu” được treo khắp ba miền đất nước sau 1975.
Nhớ
những lúc vào bệnh viện Sickbay khám tổng quát.
Nhớ
những ngày tới lớp học tiếng Anh với thầy cô thay đổi liên miên vì đi định cư.
Nhớ
cái thư viện với thật nhiều sách học tiếng Anh, và các tờ nguyệt san Việt Chiến,
Dân Chúa, Văn Nghệ Tiền Phong.
Nhớ
những hôm sắp hàng lãnh phần gà, ăn dai như đang nhai cao su; những hôm đi hứng
nước từ xà lan mang từ đất liền qua để uống và nấu ăn; và những hôm đi giật củi
để nấu ăn, thằng em đứng kế đống củi, lượm và liên tục quăng củi qua khỏi đầu về
phía sau, trong khi mình thì vừa né củi bay tới tấp, vừa lượm củi bỏ thành đống.
Nhớ
cái miễu của ông già chết vì dừa rụng trúng đầu ngay sau khi ghe cập vào
Bidong.
Nhớ
chiếc tàu sắt to lớn, rỉ sét, đầy vết đạn trên thành tàu. Người ta kể, người
trên tàu chết hết sau khi bị cảnh sát Mã Lai bắn để đuổi đi nơi khác, không cho
cập bến. Thân tàu đã được kéo ra giữa biển khơi cho chìm, nhưng chiếc tàu cứ vẫn
trôi dạt về lại Bidong.
Nhớ
buổi trưa nọ chạy ra xem một chiếc ghe cập thẳng vào đảo để xem có người quen,
chợt nghẹn ngào khi thấy một chị được khiêng vào bằng cáng vì đi không nổi. Ghe
bị cướp...
Nhớ
anh Thiện nằm đong đưa trên võng kể chuyện võ sư Nguyễn Tiến Hoá hóa điên, xẩm
tối lại ra ngoài biển múa võ, rồi khóc đau đớn sau khi mục kích vợ con mình bị
hải tặc hãm hiếp rồi giết chết.
Rồi
lại nhớ những buổi chiều lén ba tui ra ngồi trên đồi tôn giáo, nhìn mông lung
ra biển để thả hồn về với quê nhà...
...
Nhớ
nhiều thứ lắm, nhưng chắc không tài nào viết ra đây hết. Nhớ âm thanh cuối cùng
của Bidong là tiếng loa “Thông báo rời đảo, thông báo rời đảo...”, tiếp nối bởi
giọng ca của Khánh Ly, Lệ Thu qua điệu nhạc chia lìa “Nghìn trùng xa cách”,
“Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”, “Giờ này còn nhìn nhau, nhìn đắm đuối
như suối bền, nhìn suốt kiếp như chết mòn, nhìn hấp hối thương đau, ngày mai ta
không còn thấy nhau.”
Và
như người Do Thái mang trên người ngôi sao David, trong tim óc tôi mãi ghi nhớ
số căn cước thuyền nhân của mình, số tàu SS-1021, PB-505.
No comments:
Post a Comment