Minh Việt
Posted by diendanxahoidansu on 13/01/2014
Khi quan sát quá trình dân chủ
hóa ôn hòa xảy ra ở Miến Điện trong vài năm gần đây, nhiều người Việt Nam
thầm ước mong rằng chính quyền Việt Nam cũng sẽ sáng suốt tự cải cách thành một
chính quyền dân chủ. Họ hi vọng vậy một phần vì nghĩ rằng đảng Cộng Sản là một
lực lượng bất khả chiến bại vì có số lượng thành viên áp đảo, nắm quân đội và
công an, và mọi phương tiện, vật chất khác, trong khi các phong trào dân chủ
quá nhỏ lẻ.
Với một niềm tin như thế, họ
ngại ngần tham gia vào các tổ chức dân chủ đối lập dù ôn hòa nhất, và nhiều lắm
là đứng lên góp một tiếng nói hay vài kiến nghị với hi vọng thức tỉnh được
những lãnh đạo đảng Cộng Sản. Mỗi khi các lãnh đạo đảng Cộng Sản có một vài
phát biểu hàm ý dân chủ, họ lại tiếp tục nuôi hi vọng.
Những nghiên cứu chính trị nghiêm túc cho thấy rằng đảng cầm quyền không
bao giờ tự nguyện chia sẻ quyền lực nếu họ không gặp các thách thức to lớn về
chính trị mà nguy cơ là họ sẽ bị mất quyền. Chỉ khi đối mặt với một nguy cơ mất quyền họ mới
thỏa hiệp. Cũng như chơi cờ, một đấu thủ sẽ không bao giờ chịu hòa nếu anh ta
đang nắm phần thắng; anh ta chỉ đồng ý hòa khi anh ta cảm thấy bắt đầu núng
thế. Miến Điện cũng không phải là một ngoại lệ.
Năm 1948, Miến Điện chính thức
độc lập khỏi Anh và trở thành một nước cộng hòa nghị viện. Chính quyền đầu tiên
của Miến Điện dưới sự dẫn dắt của thủ tướng U Nu định hướng biến Miến Điện
thành một nhà nước phúc lợi và tiến hành một nền kinh tế tập trung. Chính sách
kinh tế này đẩy Miến Điện từ một nền kinh tế thịnh vượng ở khu vực Đông Nam Á
trong thời thuộc địa Anh vào một cuộc khủng hoảng kinh tế. Kinh tế khủng hoảng,
thu thuế không đủ chi cho nhân viên chính phủ, chính quyền xử lý bằng cách in
thêm tiền, và lạm phát tăng vọt.
Năm 1962, tướng Ne Win đảo
chính và tiến hành thành lập một nền kinh tế kiểu xã hội chủ nghĩa, quốc hữu
hóa tất cả các ngành công nghiệp, trừ nông nghiệp. Đất nước tiếp tục rơi vào
một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện.
Tình trạng kinh tế quá đói khổ
dẫn đến các cuộc biểu tình diễn ra và lập tức bị đàn áp. Năm 1962, sinh viên
trường đại học Rangoon biểu tình, bị dập tắt, chết 15 sinh viên. Năm 1974, các
cuộc biểu tình chống chính phủ nhân đám tang của U Thant, cựu Tổng Thư Kí Liên
Hiệp Quốc người Miến Điện, bị dập tắt. Các cuộc biểu tình của sinh viên sau đó
diễn ra trong các năm 1975, 1976, và 1977 đều lần lượt bị đàn áp.
Ngày 8 tháng 8 năm 1988, Cuộc
Nổi Dậy 8888 bắt đầu với các cuộc biểu tình chống chính phủ ban đầu bởi các
sinh viên ở Rangoon sau đó nhanh chóng lan ra toàn quốc. Phong trào phản
kháng lúc này bao gồm đủ mọi thành phần xã hội. Một tháng sau, phong trào phản
kháng bị dập tắt khi đảo chính quân sự xảy ra và chính quyền quân nhân Miến
Điện được thiết lập. Sau Cuộc Nổi Dậy 8888, đảng Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ
(NLD) của Aung San Suu Kyi được thành lập.
Lúc này, dưới áp lực cô lập của
thế giới dẫn đầu bởi các nước Phương Tây, chính quyền quân nhân bắt đầu tìm
kiếm một giải pháp nhằm tháo gỡ tình trạng bị áp lực. Họ tổ chức một cuộc tổng
tuyển cử nhằm chọn ra một ủy ban để soạn thảo hiến pháp mới cho Miến Điện.
Trong cuộc tổng tuyển cử này, NLD của Aung San Suu Kyi dành được 392 trên tổng
số 492 ghế. Chính quyền quân nhân từ chối kết quả.
Các chính phủ phương Tây sau đó
tiếp tục lên án, cô lập và cấm vận kinh tế Miến Điện. Nền kinh tế lâm vào bi
đát hơn. Cung không đủ cầu khiến mức lạm phát cao đẩy nền kinh tế vào cuộc
khủng hoảng lạm phát triền miên. Khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, thu ngân
sách không đủ trả lương cho nhân viên nhà nước, chính quyền in tiền và đẩy nền
kinh tế tiếp tục lún sâu vào khủng hoảng. Trong suốt thập niên 1990 cho đến năm
2007, lạm phát trung bình khoảng 25%/ năm. Tháng 4 năm 2006, chính quyền tăng
mức lương cho nhân viên nhà nước vì lạm phát quá cao và lương không đủ tiêu,
giá cả lập tức tăng vọt từ 30% đến 60% ở các mặt hàng lương thực, thực phẩm.
Nền kinh tế chao đảo liên tục, trong suốt thập niên 2000, lạm phát cao nhất là
năm 2002-2003 với 58% và thiểu phát vào năm 2001-2002 với -1.7%/năm. Tỉ giá hối
đoái chính thức của chính phủ cao hơn mức giá chợ đen đến hai trăm lần.
Mặc dù chìm trong các cuộc
khủng hoảng kinh tế triền miên, chính quyền quân nhân Miến Điện vẫn không hề
nao núng và tiếp tục cầm quyền với bàn tay sắt. Năm 2007, lúc lạm phát vọt lên
30%/năm, cuộc nổi dậy của các nhà sư diễn ra và họ tiếp tục đàn áp.
Tuy vậy, cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới 2008 vào năm sau đó đã đánh gục họ. Mặc dù bị cô lập với thế giới
phương Tây, chính quyền quân nhân Miến Điện vẫn nhận được sự đầu tư và giao
dịch từ vài nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Hàn
Quốc. Gỗ và đá quý của Miến Điện là nguồn thu ngoại tệ chính của Miến Điện bên
cạnh du lịch và nguồn kiều hối từ các Miến Kiều. Cuộc khủng hoảng kinh tế một
cách gián tiếp đã khiến khoản thu nhập nầy giảm sút đáng kể, và hậu quả là nền
kinh tế trở nên khó khăn hơn.
Lúc này, chính quyền quân nhân
Miến Điện đứng trước hai lựa chọn hoặc là tiếp tục đàn áp duy trì quyền lực,
đối diện với các cuộc nổi dậy sắp diễn ra vì kinh tế khủng hoảng nặng hơn và
người dân quá đói khổ, hoặc là bắt tay với NLD như một chiếc phao để dân chủ hóa
và nhận được viện trợ từ phương Tây nhằm tiếp tục giữ được phần nào đó quyền
lợi và quyền lực cho mình. Chính quyền quân nhân Miến Điện đã lựa chọn chọn lựa
thứ 2.
Bắt tay với NLD để cải cách dân
chủ là một giải pháp thỏa hiệp của chính quyền quân nhân nhằm cứu vãn quyền lực
và duy trì quyền lợi cho chính mình. Ở đây chúng ta phải có một nhận xét rằng
cuộc cải cách dân chủ của Miến Điện sẽ không hề dễ dàng nếu tổng thống Thein
Sein của Miến Điện không có được sự ủng hộ rộng rãi của các tướng lĩnh trong
quân đội, những người đang thấy quyền lợi kinh tế của mình giảm sút và quyền
lực chính trị đang bị đe dọa.
Trong suốt một thời gian dài,
nền kinh tế của Miến Điện nằm trong tay các tướng lĩnh. Các cơ sở kinh doanh
trong nền kinh tế Miến Điện đều do cách thành viên gia đình hay thân thích của
các tướng lĩnh kiểm soát. Sau cuộc nổi dậy 1988, đứng trước sự cô lập và
cấm vận của phương Tây nguy hại đến mối lợi kinh tế của các tướng lĩnh, họ nghĩ
đến giải pháp cởi mở chính trị với hi vọng nhận được sự nới lỏng trừng phạt từ
các nước phương Tây. Họ đã cẩn thận bắt giam các lãnh tụ nổi tiếng, kể cả đã
giam lỏng Aung San Suu Kyi tại nhà, và hi vọng rằng việc thiếu các lãnh tụ dân
chủ có tiếng và sự sợ hãi sẽ giúp phe quân nhân dành thắng lợi trong cuộc bầu
cử chọn ra các thành viên soạn thảo hiến pháp năm 1990. Họ đã mắc một sai lầm
là đánh giá quá thấp người dân. Đa số ghế dành cho NLD là một tiếng nói
phản kháng mạnh mẽ của người dân đối với phe quân nhân. Đứng trước sự sợ hãi
mất quyền lực và quyền lợi, phe quân nhân quay lại đàn áp.
Mặc dù sống trong sự cấm vận
của các nước phương Tây, giới quân nhân vẫn còn làm ăn được nhờ hợp tác với một
vài nước châu Á, chủ yếu là Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Thái Lan và Hàn Quốc.
Cuộc khủng hoảng năm 2008 một lần nước đe dọa mối lợi kinh tế của các tướng
lĩnh bên cạnh nguy cơ người dân nổi dậy một lần nữa khiến phe tướng lĩnh lần
thứ hai chọn giải pháp thỏa hiệp chính trị. Lần này phe quân nhân cẩn thận hơn
thảo ra sẵn một hiến pháp với đặc quyền dành cho giới quân đội và chuẩn bị sẵn
một đảng của quân đội trước khi đưa ra trưng cầu dân ý.
Quan sát quá trình dân chủ hóa
Miến Điện chúng ta thấy rằng phe cầm quyền Miến Điện chỉ thực sự thỏa hiệp khi
quyền lợi và quyền lực của họ bị đe dọa, năm 1990 cũng như năm 2010. Sự đe dọa
chỉ thực sự diễn ra khi phe cầm quyền đứng trước một đối thủ tiềm năng có khả
năng quy tụ được nhân dân, ở đây là NLD với Aung San Suu Kyi. Mặc dù các lãnh
tụ của NLD đa số bị bắt hoặc giam lỏng, NLD vẫn sống và hiện diện trong suy
nghĩ của người dân Miến Điện. Nếu không có một lực lượng đối lập mạnh và cương
quyết, mạnh theo nghĩa lực lượng đối lập chiếm được cảm tình của người dân và
là lựa chọn của người dân cho tương lai của đất nước, những xáo trộn cho dù rất
lớn cũng sẽ không bao giờ là đe dọa đối với phe cầm quyền. Trong một ván cờ,
đấu thủ sẽ không bao giờ cảm thấy bị đe dọa hay nao núng, nếu biết rằng đối
phương không có quyết tâm và khả năng. Chính vì vậy, khi muốn tiến trình
dân chủ diễn ra, trí thức không thể chỉ ngồi hi vọng giới cầm quyền của đảng
Cộng Sản tự cải cách. Nhiệm vụ của trí thức phải là góp phần xây dựng đội ngũ
nòng cốt lực lượng dân chủ và gây dựng và động viên niềm tin nơi nhân dân.
No comments:
Post a Comment