Mai Thái
Lĩnh
16/09/2013
(Phản biện bài trả lời của ông Trần Công Trực[1])
Trước hết, tôi ghi nhận thiện ý của ông Trần Công
Trục khi ông viết: “tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để
thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho
có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân
tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và
tiềm ẩn những nhân tố khó lường.”
Tuy nhiên, để có thể “thu hẹp khoảng cách” trong
nhận thức của xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, chúng ta không thể dựa trên
ý chí của từng cá nhân, từng nhóm người hay thậm chí dựa trên ý chí của một
đảng chính trị – cho dù đảng đó đang nắm giữ bộ máy Nhà nước. Khoảng cách đó
chỉ có thể được thu hẹp và tạo nên sự đồng thuận một khi dựa trên quyền lợi
chung của toàn dân tộc, và nhất là phải tôn trọng sự thật. Ngày nay, với phương
tiện truyền thông có tính toàn cầu, không thể bưng bít sự thật hay tìm cách
khuôn sự thật theo ý muốn của một cá nhân hay một nhóm người nào cả.
Về những bằng
chứng lịch sử liên quan đến Thác Bản Giốc, tôi có một cách nhìn hoàn toàn
khác với ông Trần Công Trục, bởi vì đối với đường biên giới Việt-Trung –
vốn là một đường biên giới có lịch sử lâu đời và có liên quan đến sự tồn vong
của dân tộc ta, đất nước ta, không thể không đề cập đến phương diện lịch sử. Hơn thế nữa, những bằng chứng lịch sử đó có từ rất lâu – trước khi Đảng
Cộng sản nắm chính quyền trên toàn miền Bắc, thậm chí trước khi Đảng Cộng sản
ra đời, vì thế không thể nói rằng đó là kết quả của “hệ thống tài liệu tuyên
truyền chính thức” trong giai đoạn cuối thập niên 1970 – khi quan hệ giữa hai
nước trở nên căng thẳng. Chính
vì lẽ đó, tôi đã giới thiệu lại các bài viết của ông Diệp Đình Huyên (tức Hàn
Vĩnh Diệp) để chứng minh rằng “Thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam” từ
rất lâu và suốt trong thời kỳ quan hệ giữa hai nước vẫn còn hữu hảo,
phía Trung Quốc không hề thắc mắc gì về “sự thật” này. Hơn thế nữa, nếu Việt
Nam thật sự là một quốc gia dân chủ bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận cho
mọi công dân thì sẽ có rất nhiều người noi gương ông Diệp Đình Huyên sẵn sàng
đứng ra làm nhân chứng cho “sự thật” đó.
Trong phạm vi của bài phản biện này, tôi tạm thời
gác lại khía cạnh lịch sử của chủ đề “Thác Bản Giốc”, để tập trung bàn về những
căn cứ pháp lý.
1) Tại sao các tài liệu liên quan đến Thác Bản Giốc và Cồn Pò
Thoong không được mang đi đàm phán?
Ông Trần Công Trục viết: “Về nguyên tắc chung tôi
đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng
như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài
liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng
rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa
thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài
liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887,
1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý
để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.”
Như vậy, theo ông Trục, các tài liệu này không được
sử dụng vì “không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh
1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý
để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.”
Thế nhưng, việc lấy hai công ước Pháp-Thanh 1887
và 1895 để làm cơ sở đàm phán trong vấn đề biên giới không phải là điều mới
mẻ. Theo cuốn VĐBG (Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc)[2] thì vào năm 1977, để phá vỡ thế bế tắc trong đàm
phán biên giới, phía Việt Nam đã đưa ra một “dự thảo hiệp định”[3], trong đó điều 1 có nội dung như sau:
[Điều
1] “Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa
Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên
giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là
đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Các văn kiện biên giới đó gồm có: (1) Công ước về
hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với
các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (2) Công ước bổ sung Công ước về
hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký
ngày 20 tháng 6 năm 1895, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (3)
Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày
15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc
đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong
các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “
Công ước 1887 và Công ước 1895”.
Nội dung này không có gì khác với “nguyên tắc chung”
mà ông Trần Công Trục nêu ra.
Vấn đề đặt ra là : tại sao dựa vào điều khoản căn
bản đó, Bộ Ngoại giao Việt Nam vào cuối thập niên 1970 vẫn có đủ căn cứ
pháp lý để khẳng định rằng phía Trung Quốc đã “vi phạm ngày càng
nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng
đường biên giới do lịch sử để lại, và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm
trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.”?[4] Bất cứ ai đọc được điều này cũng có thể đặt câu hỏi: Bộ Ngoại
giao Việt Nam vào thời kỳ đó đã căn cứ vào hệ thống bản đồ nào và những
chứng cứ pháp lý nào để khẳng định Trung Quốc vi phạm đường biên giới?
Mặt khác, ông Trần Công Trục lại viết: “Tôi không
phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh
đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài
liệu như vậy không thể mang đi đàm phán.”
Điều này quả thật rất khó hiểu. Hãy lấy một ví dụ:
các tài liệu chứng minh “vào năm 1976 Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm cồn
Pò Thoong – một địa điểm hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam” thì cho dù vào
năm 1979 hay vào năm 1999 cũng đều có giá trị như nhau chứ sao lại “chỉ có giá
trị vào năm 1979” và đến thập niên 1990 lại “không thể mang đi đàm phán”?
Để hiểu rõ vấn đề này, có lẽ chúng ta cần phải tìm
hiểu ý nghĩa của các tài liệu mà tôi nêu ra trong bài “Sự thật về Thác Bản
Giốc”:
- Tài liệu 1 về việc Trung Quốc đã “sửa bản đồ” vào
năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc: đây chính là bằng chứng về việc Trung Quốc đã sửa chữa bản đồ, làm sai
lạc vị trí của cột mốc 53; nói cách khác qua tài liệu này chúng ta được biết
cột mốc 53 nằm ở vị trí khác chứ không phải nằm ở vị trí của cột mốc 835 (mới)
hiện nay (xem bản đồ – hình 1 và hình 2):
Hình 1 : Sơ đồ Thác Bản Giốc được phân chia lại
Hình 2: Bản đồ khu vực Thác Bản Giốc hiện nay. Cột
mốc 835 chính là vị trí mới của cột mốc 53
- Tài liệu (2) về việc xây dựng trạm thủy văn trên
cồn Pò Thoong vào thập niên 1960: chứng minh vào
thập niên 1960, cồn Pò Thoong hoàn toàn thuộc về Việt Nam;
- Tài liệu (3) về việc Trung Quốc đưa quân lấn chiếm
cồn Pò Thoong vào năm 1976 : chứng minh Trung Quốc đã
lấn chiếm cồn Pò Thoong bất hợp pháp, vì vậy việc chia cồn này theo công thức
“1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung Quốc” là hoàn toàn bất hợp
lý;
- Tài liệu (4) gồm hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu
6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980: cho phép xác định vị trí của các cột mốc cũng như đường biên giới một
cách chính xác (xem bản đồ tại hình 3).
Hình 3 : Vị trí nguyên thủy của cột mốc 53 (Trích
bản đồ Trùng Khánh 6354-IV)
Có thể nói: từ bỏ các tài liệu đó đồng nghĩa với
việc từ bỏ các vũ khí pháp lý hữu hiệu nhất để bảo vệ “chủ quyền của nước ta
đối với cồn Pò Thoong và toàn bộ Thác Bản Giốc”.
Theo ông Trần Công Trục: “Những người làm công
tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu
nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông
Mai Thái Lĩnh.” Nếu đã nghiên cứu kỹ thì các vị
làm công tác đàm phán không lẽ không biết vị trí nguyên thủy của cột mốc 53?
Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã sửa bản đồ để âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong và một phần Thác Bản Giốc? Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã
chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và đã “cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập
kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới” và như vậy là đã
làm biến dạng cồn Pò Thoong?
2) Tại sao lại công nhận vị trí mới của cột mốc 53?
Nhưng tại sao trong khi từ bỏ các chứng cứ pháp lý
có sẵn trong tay, các nhà ngoại giao nước ta lại “sốt sắng” công nhận vị trí
mới của cột mốc số 53 được đoàn khảo sát “phát hiện” ra tại một địa điểm ngay
trước mặt cồn Pò Thoong?
Vào năm 2002, ông Lê Công Phụng trả lời phóng
viên Thu Uyên của VASC Orient[5] như sau:
VASC
Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có
những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc
nằm đó hay sao?
Ông
LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo
sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy
trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Điều kỳ lạ là không biết dựa vào bằng chứng nào, ông
Lê Công Phụng lại công nhận cột mốc đã được cắm ở đó từ đời nhà Thanh:
VASC
Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời
Thanh?
Ông
LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời
Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo
quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông,
một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là
chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại
được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
Hình 4: Thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Vũ Dũng trả
lời phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng Biên Tập báo Dân Quyền (2009)
Vào năm 2009, ông Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ
Ngoại giao, đã dành cho báo Dân Quyền ở Hoa Kỳ một cuộc trả lời phỏng vấn, qua
đó ông cho biết:
“Trước khi ký hiệp ước 1999, chúng tôi đã cử rất
nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm các hồ sơ liên quan đến Thác Bản Dốc, vào
tất cả các kho lưu trữ và tìm được một bản đồ tốt nhất về vị trí Thác Bản Dốc.
Căn cứ theo bản đồ, đường biên giới đi theo trung tuyến của sông Quây Sơn (đúng
như công ước Pháp – Thanh mô tả), khi đó, vẽ đường biên giới đi ở nhánh phía
bắc của cồn Pò Tho, có diện tích khoảng 2,7 ha. Ngay bản đồ tốt nhất mà ta tìm
được, thác này vẫn là thác chung. Tôi xin khẳng định ta không có bất kỳ tài
liệu gì cho thấy thác Bản Dốc là của Việt Nam. Nói về luật pháp quốc tế,
sông này là sông chung, thác này không thể là thác riêng được, không thể có
nước nào chấp nhận.”[6]
Tại sao phải cử nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm
kiếm trong khi ngay tại Việt Nam đã có những bản đồ 1/50000 rất chính xác?
Nhưng “tấm bản đồ tốt nhất” mà ông Vũ Dũng nói là bản đồ nào? Phải chăng đó
chính là tấm bản đồ đã được công bố trong một bài báo đăng trên tờ Diễn đàn
vào năm 2003?[7] Theo trình bày của ông Nguyễn Ngọc Giao, đây là bản đồ được
tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp:
Hình 5:Bản đồ tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ ngoại giao
Pháp
Nhìn bản đồ này, chúng ta thấy có nhiều nhược điểm:
thể hiện không chính xác khu vực xung quanh thác, không có vòng cao độ, không
có tọa độ địa lý, không xác định được mặt cắt của thác ba tầng, v.v… Nhưng
đường biên giới vẽ trên bản đồ này vẫn cho thấy toàn bộ khu vực thác (hình trái
xoan hơi giống quả trứng, trên có chữ chute) thuộc về lãnh thổ nước ta.
Không có điều gì chứng tỏ “thác này vẫn là thác chung“. Nếu đặt bản đồ này bên
cạnh bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, nhờ có các vòng cao độ chúng ta có thể
thấy rõ mặt cắt của thác nước nằm xiên góc theo hướng từ bắc – tây-bắc
đến đông – đông-nam, và đường biên giới chạy giữa dòng sông về phía hạ
lưu thác không hề động chạm gì đến mặt cắt của thác nước. Điều đó chứng tỏ toàn
bộ thác nước thuộc về Việt Nam (xem hình 6). Nói cách khác, nếu các nhà đàm
phán của Việt Nam có trong tay tấm bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, thì họ
càng có thêm chứng cứ để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là thuộc về lãnh thổ
Việt Nam, và có thể xác định dễ dàng vị trí cũ của cột mốc 53.
Hình 6 : So sánh bản đồ tại Bộ Ngoại giao Pháp và bản
đồ Trùng Khánh6354-IV
Bây giờ ta thử đặt bản đồ Trùng Khánh 6354-IV bên
cạnh tấm bản đồ do Trung Quốc cung cấp[8] (xem hình 7). Chúng ta sẽ thấy rõ: vạch răng cưa trên
bản đồ thể hiện mặt cắt của thác nước gần như thẳng đứng theo hướng bắc-nam –
khác hẳn thực tế. Hơn nữa, cột mốc 53 đáng lẽ nằm gần đầu mút phía bắc của vạch
răng cưa đã bị dời đi một khoảng khá xa đến một vị trí đối diện với cồn Pò
Thoong. Chính vì lẽ đó, đường biên giới đáng lẽ phân chia dòng Quây Sơn ở phía
hạ lưu của thác nay lại cắt ngang cồn Pò Thoong và chia đôi phần thác chính cho
phía Trung Quốc. Nói cách khác, nếu có tấm bản đồ Trùng Khánh trong tay thì ông
Lê Công Phụng không thể xác định cột mốc 53 cắm ở vị trí đó “từ đời nhà Thanh”
và ông Vũ Dũng không thể chia Thác Bản Giốc cho phía Trung Quốc.
Hình 7: So sánh bản đồ do Trung Quốc cung cấp với
bản đồ Trùng Khánh 6354-IV
Ví dụ minh họa trên đây cho thấy: hoặc các nhà ngoại
giao Việt Nam không hề biết đến các tờ bản đồ của QĐND, hoặc họ biết rõ (như
lời ông Trần Công Trục đã nói) nhưng lại không được phép dùng, buộc phải
sử dụng các tài liệu do Trung Quốc cung cấp. Nhưng nếu không biết thì tại sao
ông Trần Công Trục lại khẳng định là đã nghiên cứu kỹ ? Mà nếu đã biết
rõ thì tại sao quý vị lại dễ dàng công nhận vị trí mới của cột mốc 53,
dẫn đến việc chia cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc? Chính những lời nói mâu thuẫn của các nhà ngoại giao Việt
Nam tham gia đàm phán về Thác Bản Giốc đã bộc lộ sự lúng túng, bởi vì họ không
dựa trên những tài liệu chính xác có tính khách quan, khoa học.
3) Tại sao không được phép sử dụng những tài liệu pháp lý mà Bộ
Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có sẵn trong tay?
Tại sao phía Việt Nam không được quyền sử dụng những
tài liệu mà tôi đã nêu trên đây? Tại sao ông Trần Công Trục một mặt “ không phủ
nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta” nhưng lại cho rằng chúng
“chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó” và đi đến kết luận “ những
tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán”? “Thời điểm đó” và “bối cảnh đó”
có gì khác với “thời điểm” cũng như “bối cảnh” sau này – tức là từ thập niên
1990 cho đến khi hoàn thành việc cắm mốc vào đầu năm 2009?
Theo tôi, để có thể hiểu được điểm tế nhị này, phải
đọc kỹ cuốn VĐBG – tức là “bị vong lục” của Bộ Ngoại giao Việt Nam công
bố năm 1979. Như trên đã trích dẫn, vào năm 1977, phía Việt Nam đã đưa
ra một dự thảo hiệp định, trong đó điều 1 ghi rõ căn cứ đàm phán là các công
ước Pháp Thanh 1887 và 1895. Thế nhưng ngoài điều 1 còn có điều 2 như sau:
[Điều 2] “Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới
quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1. Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt
quá đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại cho bên kia. “ (VĐBG, tr.
23)
Phía Trung Quốc đã bác bỏ bản Dự thảo Hiệp định này.
Bộ Ngoại giao Việt Nam viết tiếp như sau: “Phía Trung Quốc đã từ chối xem
xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một đề nghị khác, thực chất là đề nghị
cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ là nhằm duy trì hiện trạng biên giới (không
phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và
sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ.” (VĐBG, tr. 26)
Như vậy, đàm phán vào cuối thập niên 1970 bị bế tắc
là do chỗ Trung Quốc muốn duy trì “hiện trạng biên giới” chứ “không phải nguyên
trạng đường biên giới lịch sử”. Nói cách khác, họ không chịu rút lui khỏi các khu vực mà họ đã dùng vũ
lực lấn chiếm. Mục đích của họ là “giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều
chỗ có lợi cho họ.”
Về sau, Trung Quốc còn tiếp tục đánh chiếm thêm một
số địa điểm khác nữa, ví như cao điểm Núi Đất (1509) ở phía bắc tỉnh Hà
Giang, mà phía Trung Quốc đã chiếm vào năm 1984 và đặt tên là Lão Sơn.
Nhà văn Phạm Viết Đào đã công bố điều này trên blog của ông và đã phỏng vấn một
số sĩ quan từng tham gia các trận đánh này. Rất tiếc là ngày nay nhà văn đã bị
bắt giam nên không thể tham gia “đối thoại” với ông Trần Công Trục.
Dựa trên thực tế này, chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao vào lúc đó Trung Quốc khăng khăng không
chịu đàm phán với phía Việt Nam mà mãi đến thập niên 1990 mới thay đổi thái độ,
đồng ý đàm phán và tiến hành cắm mốc biên giới? Phải chăng phía Việt Nam đã
chấp nhận đàm phán mà không đòi hỏi phía Trung Quốc rút quân ra khỏi các vùng
mà họ đã chiếm đóng, nghĩa là chấp nhận đàm phán dựa trên “hiện trạng” thay vì
dựa trên “nguyên trạng đường biên giới lịch sử”?
Vào tháng 8 năm 2012, ông Nguyễn Trung – cựu đại sứ
Việt Nam tại Thái Lan, đã công bố bài viết “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn
kịch bản Thành Đô 1990”[9], trong đó có đoạn:
“Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những
việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới
biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công
trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-xít Tây
Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra
là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao
lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.”
Việc các nhà ngoại giao Việt Nam không được phép sử
dụng các tài liệu pháp lý về Thác Bản Giốc có liên quan gì đến “sự chi phối sâu
sắc của quyền lực mềm Trung Quốc” mà ông Nguyễn Trung vừa nêu hay không? Phải chăng Hội nghị cấp cao tại
Thành Đô (tháng 9 năm 1990) – một hội nghị cực kỳ bí mật trong đó các nhà lãnh
đạo hai bên đàm phán chuyện gì và cam kết điều gì cho đến nay vẫn chưa ai biết
rõ, chính là khởi điểm của sự thay đổi lập trường của phía Trung Quốc trong vấn
đề biên giới trên bộ? Và phải chăng sự thay đổi lập trường đó đồng
nghĩa với việc phía Việt Nam chịu từ bỏ điều 2 trong Dự thảo Hiệp định năm
1977, nghĩa là không đòi hỏi Trung Quốc phải trả lại cho phía Việt Nam những
vùng đất “vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1“?
Nếu những điều suy đoán trên đây là đúng sự thật thì
trách nhiệm chính không thuộc về các nhà ngoại giao Việt Nam – dù là tầm cỡ như
các ông Lê Công Phụng, Vũ Dũng hay Trần Công Trục. Nó thuộc về trách nhiệm của
một cơ quan quyền lực cao hơn –một cơ quan quyền lực không chịu sự chi phối của
bất cứ cơ quan quyền lực Nhà nước nào trên đất nước Việt Nam, một cơ quan quyền
lực có thể quyết định bất cứ điều gì và không bị ai kiểm soát.
Ông Trần Công Trục viết: “Và về quy trình đàm
phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam,
trong đó nói rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công
phu và nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các
bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được
Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán.”
Tôi hoài nghi ý kiến này, nhất là về vai trò của
Quốc hội. Không biết khi nói “Quốc hội chấp thuận thông qua”, ông Trục muốn nói
đến “Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, “Đảng đoàn tại Quốc hội” hay “toàn thể Quốc
hội”? Nếu quả thật Hiệp định biên giới năm 1999 đã được toàn thể Quốc hội
chính thức thông qua thì xin ông vui lòng cho biết phiên họp đó diễn ra lúc
nào, nội dung thảo luận ra sao và khi biểu quyết, đã có bao nhiêu đại biểu tán
thành, bao nhiêu phản đối, bao nhiêu bỏ phiếu trắng (kèm theo danh tính của các
đại biểu đã biểu quyết từng loại phiếu).
Biên bản của phiên họp đó chắc chắn sẽ là một tài
liệu vô cùng quý giá để các thế hệ sau này tham khảo khi cần xác định công, tội
của từng vị đại biểu trước lịch sử và trước nhân dân Việt Nam. Nhưng riêng tôi,
tôi không tin rằng đã có một phiên họp như thế.
Đà Lạt, 15/9/2013
M.T.L.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
[1] “Ts Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác
Bản Giốc“, Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 10/09/2013:
[2] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc,
Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979
[3] Tên đầy đủ là “Dự thảo Hiệp định về đường biên giới
quốc gia trên bộ giữa Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, VĐBG, sđd, tr. 21-26.
[4] VĐBG, sđd, tr. 8.
[5] Có thể xem nguyên văn bài phỏng vấn Thứ trưởng
Ngoại giao Lê Công Phụng công bố trên VASC – Orient 2-2-2002 được lưu
giữ tại địa chỉ:
[6] Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng biên tập báo Dân Quyền phỏng
vấn Thứ trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng, Dân Quyền 13-3-2009:
Tôi ghi nguyên văn, kể cả những lỗi chính tả (vd:
Bản Dốc, Pò Tho, v.v…)
[7] Nguyễn Ngọc Giao, “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn Đàn số
129 tháng 5/2003.
[8] Bản đồ này cũng do báo Diễn đàn công bố
trong bài báo nói trên.
[9] “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990”, Bauxite
Vietnam 13/8/2013:
---------------------------------------------------------
SỰ THẬT về THÁC BẢN GIỐC
SỰ
THẬT về THÁC BẢN GIỐC - KỲ 1 : AI LÀ CHỦ NHÂN THỰC SỰ CỦA THÁC BẢN GIỐC? (Mai
Thái Lĩnh)
3-9-2013
SỰ
THẬT về THÁC BẢN GIỐC - KỲ 2 : TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM THÁC BẢN GIỐC NHƯ THẾ NÀO?
(Mai Thái Lĩnh) 3-9-2013
3-9-2009
©2003
Hùng Sử Việt
Trương
Nhân Tuấn
Trương Nhân Tuấn
Đoàn Nam Hải
(danchu.net)
BS Nguyễn Đan
Quế
No comments:
Post a Comment