Kỳ 1 – AI LÀ CHỦ NHÂN THỰC SỰ CỦA THÁC BẢN GIỐC?
Mai Thái
Lĩnh
10/02/2012
Ảnh
1: Bản đồ huyện Thượng Lang – Cao Bằng thời Pháp thuộc.
Hai
chữ Ban Gioc trên bản đồ là “làng” Bản Giốc ở gần thác nước.
Kỳ 1 – AI LÀ CHỦ NHÂN THỰC SỰ CỦA THÁC BẢN GIỐC?
Vào
những tháng cuối năm 2011, “Thác Bản Giốc” bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng
đầu của báo chí trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là tình
trạng mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch Trung Quốc thu hút được
gần một triệu du khách hàng năm nhờ vào thắng cảnh này thì về phía Việt Nam, số
lượng du khách đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào khoảng 30 ngàn. Nhiều lý do đã
được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa được quan tâm đầu tư
đúng mức, do “Hiệp định hợp tác khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc”
chưa được ký kết, v.v. Thậm chí, trên báo Thanh Niên, các phóng viên còn
biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các báo phương Tây (như trang mạng News.com.au
của Úc hay tạp chí Life của Mỹ) đã “xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh
thổ Việt Nam” khi chú thích ảnh chụp Thác Bản Giốc là “Detian Falls, China”
(Thác Đức Thiên, Trung Quốc) [1].
Vấn
đề đặt ra là: tại sao trong khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung
Quốc vẫn có thể tiến hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến
sự hỗ trợ của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp
tác” thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại sao
Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước trước đây
được coi là của riêng Việt Nam nay lại trở thành “thác nước chung” của hai quốc
gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo chí “lề phải”), chưa thấy ai
đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi quan trọng cần
được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi “ai mới thật sự là kẻ
xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?”.
1. Thác Bản Giốc có gì lạ?
Thác
Bản Giốc là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta ở vùng biên giới Việt – Trung.
Vào thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện
Thượng Lang, ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các bản đồ
của vùng này, vị trí của thác nước thường không được ghi rõ; hai chữ “Bản Giốc”
được nhìn thấy trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng) của người
Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí của thác nước (Ảnh 1).
Điều
gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên
toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977),
nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau: “Sông Quây Sơn ở
phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì
đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m. Vào mùa
lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến
đổ xuống các bậc tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới thác
mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng, người ta có cảm tưởng bị
vây quanh bởi những bức tường nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta
cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị” [2].
“Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản
Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.
Ảnh
2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước cạn. Bờ nam (hữu ngạn) của sông Quây
Sơn là lãnh thổ của Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) ngày nay thuộc lãnh thổ của
Trung Quốc.
Nếu
nhìn một cách toàn diện, Thác Bản Giốc bao gồm hai phần. Phần thác chính ở phía
bắc là “ba bậc thác nước chênh nhau đến 34m” như trên vừa nói - tạm gọi là
“thác ba tầng”; phần thác phụ ở phía nam là “ba dòng thác” đổ từ trên cao xuống
tương tự những thác thường thấy trong khắp cả nước, không có gì đặc sắc. Vào
mùa nước lớn, khi nước chảy tràn trề, người ta có thể nhìn thấy rõ ba dòng thác
làm nên thác phụ; nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng nước teo tóp đổ
vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác chính mới là “linh hồn” của
Thác Bản Giốc. Những hình ảnh ngày xưa thường thấy trên các sách ảnh hay lịch
treo tường thường là ảnh của phần thác chính. Do đó trước đây mỗi khi nghe nói
đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến phần thác phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ
đẹp của Thác Bản Giốc – dù là thác chính nói riêng hay toàn bộ hai phần của
thác, chỉ thể hiện một cách trọn vẹn khi được nhìn ngắm từ chính diện hay từ
phía “bờ bên kia”, tức là bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờ Nam (hữu
ngạn), chúng ta không thể nhìn thấy toàn cảnh của hai phần thác. Nếu chịu khó
đi ra tận doi đất ven sông ở hạ lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy “thác ba
tầng”, nhưng chỉ có thể nhìn nghiêng chứ không thể nhìn được chính diện (ảnh 3).
Ảnh
3: Dòng chính của Thác Bản Giốc nhìn từ doi đất ở hữu ngạn thuộc lãnh thổ Việt
Nam
Như
vậy, không cần phải là chuyên gia về du lịch, chúng ta cũng có thể thấy ngay
được sự thật: ai sở hữu được bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế
thượng phong trong khai thác du lịch vì từ phía này, người ta có thể nhìn thấy
toàn cảnh của thác (kể cả hai phần chính và phụ), có thể đi ngược dòng sông
bằng thuyền bè đến tận chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để
ngắm cảnh, chụp ảnh... Trong khi đó, người nắm giữ bờ phía nam không thể giúp
du khách nhìn ngắm tất cả các vẻ đẹp của thác – trừ khi phải nhờ cậy phía bên
kia.
Kể
từ khi sở hữu được bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa
Thác Bản Giốc vào danh sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天 , Detian). Theo lộ
trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở bằng xe ca
đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một quãng
đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh toàn cảnh đẹp như tranh
vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách cũng có thể dùng
bè để đi đến chân thác.
Ảnh
4: Hình ảnh thơ mộng chụp từ phía Trung Quốc
Ảnh
5: Du khách dùng bè để đi đến chân thác
Một
lợi thế khác của bờ bắc là du khách có thể trèo lên thượng nguồn, mua sắm ở chợ
trời biên giới để rồi sau đó trở lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía
nam.
Tóm
lại, phía Trung Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược
lại, nếu muốn khai thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía
Việt Nam buộc phải nhờ vả ông bạn “16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên
phải chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.
Ảnh
6: Thác Bản Giốc: đường lên thượng nguồn từ bờ bắc.
Việc
Trung Quốc nắm được ưu thế trong kinh doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc
không cần đến Việt Nam đã mặc nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi
cho rằng “trong việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần
thác phụ cộng với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của ông
Vũ Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm của thuật
ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như một thắng cảnh
đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không phải là giữ được phần nhiều
hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác chính), bởi vì phần bị mất
đi (nửa thác chính) tuy ít hơn, nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông
Quây Sơn lại chính là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất của
thắng cảnh. Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán cộng trừ như
ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính toán”. Đó là chưa kể
đến giá trị của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng, giá trị
mà không có bài toán số học nào có thể lấp liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu
ở phần sau.
2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?
Trong
một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC
Orient) [3]
vào đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã
phát biểu như sau:
“Ông
LCP: Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ
là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói
thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là
của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách
giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng.
Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và
Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột
mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
VASC
Orient:
Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông
LCP:
Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa
được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân
giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông
suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được.
Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới
phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC
Orient:
Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi
thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông
LCP:
Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm
trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng
không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước
tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng
phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý
Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương
nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng
ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc
phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được
1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia
đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía
bên mình.
Ở
chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn
đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc” [4].
Tóm
lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở
giữa suối” cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán
của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Ảnh
7: Bản đồ khu vực 186 C (vùng tranh chấp ở Cồn Pò Thoong)
Tấm
bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn
đàn của Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là
“tài liệu mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này nhằm giải
thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc 53 cho nên dựa
theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở phía nam cồn Pò Thoong
dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như thế, toàn bộ cồn Pò Thoong phải
thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1 phần 3 của thác chính.
Theo
giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm
phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên
cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ
và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc
hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn
vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường
biên giới được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước
đây) đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa
của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung tuyến
của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp
đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ 835/1 nằm
sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ
lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và 836 (2) nằm trên doi đất
thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).
Ảnh
8: Sơ đồ Thác Bản Giốc và đường biên giới mới
Nhưng
tại sao cồn Pò Thoong lại bị chia cắt theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt
Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ,
thành viên đoàn đàm phán, giải thích như sau: “Tại khu vực thác Bản Giốc, theo
quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi
theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường
biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm
1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam” [6].
Điều
đó có nghĩa là: đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ
quốc tế” thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung
Quốc, nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai
bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn.
Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn xây dựng
vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn
chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.
Ảnh
9: Cách phân chia lại Thác Bản Giốc
Có
một chi tiết cho thấy cách tư duy và lập luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao
Việt Nam: phần thác chính (ba tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba
dòng) lại được gọi là “thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa
“thác cao” ở phía trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên nào?
3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?
Như
trên đã dẫn, ngay cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng
rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không
ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói
đấy là của Trung Quốc”. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy
“khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của giới trí
thức?
Nếu
xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ
Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài
liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam
đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản Giốc
nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh 10).
Ảnh
10: Ảnh Thác Bản Giốc in trong sách của ông Lê Bá Thảo
Điều
đáng chú ý là dòng ghi chú bên dưới: “Trên sông Quây Sơn ở ngay biên giới”.
Nhìn vào tấm ảnh, chúng ta thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của
thác chính phía bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho
thấy ở tả ngạn của dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất
thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho phía
Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ của mình để
chụp những tấm ảnh tương tự.
Ảnh 11: Bản đồ
Miền Đông Bắc (Lê Bá Thảo)
Cũng
trong cuốn sách nói trên, có một bản đồ “Miền Đông-Bắc” đăng ở trang 41 (ảnh
11). Nhìn vào tấm bản đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong
nội địa nước ta. Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả
(vốn là một nhà địa lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác
nước như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng với sự
kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng tin cậy.
2) Tác giả Trương
Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au
Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới
Quảng Tây)
của Thiếu tá Famin - Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894
[7].
Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong
phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8],
dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng
Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng sông
này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi đây (để vào
đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới
một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai
ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm
thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một
bồn nước thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên
những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng
vẻ tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những
vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở vùng
lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.
Ảnh
12: Trích đoạn trang 12 – sách của Famin: sông Quây Sơn đợc ghi là Qui-Thuan
Trong
đoạn văn này, cần chú ý đến câu: “Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng
sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu
này cho thấy “thác nước tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui
Thuận (tức sông Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác, ở
bờ trái (tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc lãnh thổ Việt
Nam. Như thế trong khoảng 2 km tính từ Thác Bản Giốc, đường biên giới không thể
là trung tuyến của dòng sông như “cách thức phân giới” mà các nhà ngoại giao
của hai nước đã “sáng tạo” ra dựa theo Hiệp ước 1999.
Một
điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan
(Qui-Thuận). Trong bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng
Tây”, dựa trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long
(tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam
có một châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9].
Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ
Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh” [10].
Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương
(châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm
la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài liệu của Trung
Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt
là "Qui Xuân hà".
3) Trong số các bưu
ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số
832.
Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN - Région de Cao-Bang – Cascade de
Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs tonkinois” (BẮC KỲ -
Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
Ảnh
13: Bưu ảnh 832 của Pierre Dieulefils:
Thác
Bản Giốc - Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông.
Nhìn
vào tấm bưu ảnh (ảnh 13), chúng ta thấy những người lính Việt dưới sự chỉ huy
của một người Pháp đang lội qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước
cạn. Thác trong ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều
này chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là đất
của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy người
Pháp và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia bờ sông và từ bên
đó trở về.
3) Trong bài viết
“Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11],
ông Hàn Vĩnh Diệp
– một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm công tác ở vùng
Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm
1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa
- Tập đọc cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài
nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày - Nùng;
còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo
sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh tỉnh
Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên kia biên giới Trung
Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh.
(…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn
một cây số vẫn là làng bản dân ta”.
4)
Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn
Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn
“dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.
Ảnh
14: Cột mốc 53 cũ (bên trái) nằm cạnh cột mốc 835 mới (bên phải)
Nếu
xem lại “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum) năm 1979 của
Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm
Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc,
từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó.
Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả
lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu
vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một
đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã
rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên
nhận cồn này là của Trung Quốc” [12].
Như
vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm
1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh
cũng đã công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ
quyền của Việt Nam đối với cồn Pò Thoong.
Ảnh
15: Cột mốc phụ 835-1 nằm đối diện với cồn Pò Thoong
Việc
Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm
thủy văn ở nơi đó không thể che lấp được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở
hữu của cồn này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn
bộ hồ sơ về việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là
một bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai
vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực hiện
sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong.
Ngược
lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó
(trước mặt cồn Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn
Pò Thoong, vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều
này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt
Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò Thoong
vào thập niên 1960?
Tóm
lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp
ước 1999 một phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn
bộ bờ phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt
Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm
trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan
đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để
hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị
trí của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định
Pháp-Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng
định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi
khác theo thời gian?
4.
Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?
Ảnh
16: Bản đồ Sông Quây Sơn
Nhìn
vào tấm bản đồ trích từ Bản đồ giao thông năm 2004 (ảnh 16), chúng ta
thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại một điểm gần
cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại một điểm gần cửa khẩu Lý Vạn. Điều
đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở thành
đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông chính là đường biên
giới). Điểm đó có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn
cứ chủ yếu để xác định chủ quyền đối với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột
mốc này bị dời đến một vị trí khác thì chủ quyền của Việt Nam đối với Thác Bản
Giốc sẽ bị ảnh hưởng.
Trong
khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một
số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:
Ảnh
17: Trích biên bản Pháp–Thanh 19-6-1894
-
Trước hết là biên bản Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó xác định: cột mốc
số 53 có tên là Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口 ), được cắm “ bên lề một con đường,
ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ” (Au bord du chemin et
au SO et sur le prolongement d’un petit bois). Cột mốc số 54 có tên là Lung
Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山)
được đặt tại vị trí “giữa chân của các núi đá và ranh giới của các ruộng lúa
phía trước mặt Ban Mong” (Entre le pied des rochers et la limite des cultures
en face Ban-Mong).
-
Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương,
nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị
trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la
frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de
petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques
difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins
conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à
l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux
Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de
Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de
Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan
(53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de
la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être
l’objet d’une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade de 50m
qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré
entre des mamelons élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau).
Câu
hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy
luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu của
thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie
vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột
mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là “cột mốc nằm
nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.
-
Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến
vùng này (xem ảnh 18). Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ
1/50.000 do Nha địa dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực
hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam
phát hành trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ
lệ 1/50.000.
Để
độc giả dễ phân biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to một phần nhỏ của bản đồ và
xoay bản đồ cho đúng hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột
mốc 54 (B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của borne 53)
phía đông-nam, có một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này
giải thích lý do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai bờ sông
một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng ta có thể bác bỏ ý
kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên một cồn giữa suối cách
thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53) hoàn toàn nằm trên
bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không liên quan gì đến một “cồn” nào đó
trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này cũng cho thấy có một đồn của Trung Quốc
(Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.
Ảnh
18: Bản đồ SGI do tác giả Trương Nhân Tuấn công bố
Ảnh
19: Trích đoạn bản đồ SGI - khu vực Thác Bản Giốc
Nhược
điểm của tấm bản đồ này là thiếu các vòng cao độ (contour lines, courbes de
niveau) cũng như các tọa độ địa lý cần thiết để xác định một cách chính xác vị
trí của cột mốc. Mặt khác, nó cũng không ghi rõ vị trí của Thác Bản Giốc, cho
nên rất khó xác định vị trí của cột mốc số 53.
Thật
ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ
cột mốc 57 cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang
tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học
Texas ở Austin (The University of Texas at Austin) [14].
Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965,
dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Ảnh
20: Trích bản đồ Trùng Khánh Phủ - sheet 6354-4 (U.S. Army Map Service)
Làm
thế nào mà quân đội Hoa Kỳ có được tờ bản đồ này? Căn cứ vào ghi chú trên tờ
bản đồ, chúng ta có thế ước đoán bản đồ này được biên soạn dựa trên dữ liệu của
Nha Địa dư Đông dương (Service géographique de l’Indochine) trước kia và cả
trên những thông tin do chính quân đội Hoa Kỳ thu thập được.
Ngoài
ra, còn có một tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV do Cục
bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980, rất giống
với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu tập Bản đồ Việt Nam
(Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech
University) sưu tầm và công bố [15].
Tờ bản đồ này được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm 1976
đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể phỏng đoán tờ
bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh Phu, sheet 6354-4
của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền Bắc đã tiếp quản toàn
bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.
Cần
lưu ý là bản đồ này được in lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời điểm với việc
Trung Quốc tấn công cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ
“quốc giới chưa xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản
đồ Trùng Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54
(ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).
Ảnh
21: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ mốc 58 đến mốc 54
Dựa
vào bản đồ, chúng ta có thể thấy rõ đường biên giới từ cột mốc 57 (M. 57) đến
cột mốc 55 (M.55) đúng như Détrie mô tả: “Sau cửa Dốc-Khánh, đường biên giới
được vạch trong lòng dãy núi đá, để lại cho Bắc Kỳ các thung lũng hẹp ít quan
trọng mở ra phía Lung-Piac (Lũng Phiắc). (Đường biên giới) chạy gần hai
thung lũng rất khó thâm nhập là Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung
Noi); băng ngang qua các thung lũng này là những con đường dẫn đến
Thin-Thang (T’ien-teng) qua ngõ Ai-Thin-Thap (mốc 56) và Lung-Moi (Lung
Noi, mốc 55) đến tận vùng cắm mốc. Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và
Lung-Moi (Lung Noi) đóng thuế cho người Trung Hoa” [16].
Ảnh
22: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ mốc 54 đến mốc 53
Détrie
viết tiếp: “Tiếp đó, đường biên giới trở lại chân các núi đá trước mặt làng
Ban-Mong (Bản Mom, mốc 54), chạy dọc theo chân của các núi đá ấy và dưới
chân của đồn Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa của một khu rừng nhỏ và
cắt con đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến dòng sông – dòng sông mà đường
biên giới chạy xuôi theo cho đến tận Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường đi từ
mốc 53 dẫn đến Dốc-Khánh (mốc 57) đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp sắp đến
phải được giám sát thường xuyên. (…) Từ thác nước đẹp cao 50 m - nằm
nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53, sông Qui-Xuân [17]
chảy thu hẹp lại giữa những ngọn đồi cao”.
Nhìn
vào bản đồ, chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57
ở phía tây-bắc “đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”. Con đường này chạy dưới
chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc
phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường xuyên”. Chúng
ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con đường Hang-Dong-Quan” (le
chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53. Sau khi vượt qua biên giới ở mốc
53 gần Thác Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan chạy men bờ sông (tả ngạn sông
Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ
19) và có thể mãi cho đến năm 1979 (là lúc phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh
6354-IV của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.
Ảnh
23: Dải đất dưới chân thác ở tả ngạn thuộc lãnh thổ VN
Có
thể nói hai tờ bản đồ 6354-4 mang tên Trùng Khánh Phủ và Trùng Khánh hoàn toàn
ăn khớp với những gì trung úy Détrie đã mô tả trong nhật ký. Cả hai tờ bản đồ
này cũng cho thấy thác nước “nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53”.
Điều đó có nghĩa là cột mốc “nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác”,
nhưng không nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới chạy theo hướng tây
bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa thác nước và ngọn đồi tiếp giáp, cắt
một diện tích đất ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam trước khi nhập vào
đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).
Như
vậy, toàn bộ thác Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam, toàn bộ dải đất chạy dài từ
dưới chân thác lên đến cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc
54 cũng thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta lý giải được tại sao toán
lính người Việt dưới quyền chỉ huy của một người Pháp lại có thể đi tuần tra từ
bên kia sông và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán lính
này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã nhắc đến, đi từ
phía trên thác để xuống chân thác, lội sông trở về phía hữu ngạn của sông Quây
Sơn (xem bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng trên mảnh đất này,
nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác Bản Giốc được đăng trong cuốn sách
của nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không thể
đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một tấm ảnh tương tự, bởi vì dải đất
này đã bị cắt cho phía Trung Quốc.
Ảnh
24: Thác Bản Giốc nhìn từ phía Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) là những núi cao chót
vót.
Mặt
khác, đường biên giới từ mốc 54 đến mốc 53 chạy dọc theo chân của dãy núi đá
vôi. Với địa thế hiểm trở như ở vùng này (xem ảnh 24), cho dù phía Trung Quốc
có thể đóng đồn ở trên núi cao (trong bản đồ của Hoa Kỳ ghi chữ fort,
trong bản đồ của Việt Nam in chữ đồn), quân đội của họ cũng không thể
xâm nhập vào các thung lũng bên dưới. Thế nhưng, tình hình hoàn toàn sẽ đổi
khác nếu phía Trung Quốc đặt được một đầu cầu xuống vùng thung lũng bên dưới.
Đầu cầu đó giúp họ có thể tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng dọc sông
Quây Sơn, với sự yểm trợ của pháo binh đặt trên những điểm cao. Điều đó giải
thích được nguyên do tại sao phía Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong, một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay phía trên thác.
(Còn
tiếp)
Đà
Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[1]
Bản Giốc chờ ngày cất cánh, Thanh Niên 23/10/2011:
[2]
Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1977,
tr. 43-44.
[3]
VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay
[4]
“Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của VASC Orient chiều
28/1/2002”. Mặc dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên
mạng Internet trong suốt một thập niên qua.
[5]
Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền
Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009:
[6]
Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị”,
Vietnam Net 02/01/2009: http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/
Ông
Phó giáo sư Tiến sĩ này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc
gia thuộc Bộ Ngoại giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại
Malaysia.
[7]
Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin,
Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en
1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895. Ảnh chụp
lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong “Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn
Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao
nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam, 07/01/2011: http://www.boxitvn.net/bai/15750
[8]
Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu quân sự (territoires
militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang và (4) Lai Châu. Về
sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo
quân sự thứ hai (Xem Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời,
Viện Sử học VN - NXB Thuận Hóa, 1996, tr. 219).
[9]
Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, phần I,
29-08-2009: http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1
[10]
Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, NXB Thuận Hóa
1997, tr. 403.
[11]
Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng trên Mạng Ý kiến
(ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang mạng này không còn tồn tại vì bị
tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12]
Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, NXB Sự thật, Hà Nội, 1979,
tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn của bản «bị vong lục» (giác thư,
memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.
[13]
Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011:
[14]
Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964
(10.1MB) [GeoPDF]:
[15]
AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
[16]
Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17]
Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn
dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng
sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan
như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì
tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới xuất hiện
gần đây.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 11:37
Việc phân giới, cắm mốc không thể dựa trên "quan điểm lịch sử" như ông Mai Thái Lĩnh vừa nếu mà phải dựa vào những văn kiện có giá trị như Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận. Tại vị trí thác bản Giốc, công ước Pháp-Thanh không mô tả rõ thuộc về nước nào nên xảy ra tranh chấp. Theo thỏa thuận từ ban đầu thì đối với đường biên giới di qua sông suối tàu thuyền không đi lại được thì đường biên giới đi qua trung tuyến dòng chảy chính. Khi xác định thì Cồn Pothong nằm ở bên phía Trung Quốc. Nếu theo như thế thì cồn Pothong thuộc về phía TQ. Nhưng phía ta cố gắng đàm phán nên cuối cùng ta nắm 1/3 cồn Pothong còn TQ nắm 2/3. Điều đó chứng tỏ hoàn toàn không có chuyện Đảng bán thác Bản Giốc cho TQ.
ReplyDelete