Sat, 08/31/2013 - 19:39 —
songchi
Đọc một số bài báo, thấy nói
Hàn Quốc là “thiên đường cho giải phẫu thẩm mỹ”, là quốc gia đứng đầu thế giới
về tỷ lệ giải phẫu thẩm mỹ tính trên đầu người.
Trên CNN Travel ngày 9 tháng
Tám, 2012 từng giới thiệu về phong trào giải phẫu thẩm mỹ ở Hàn Quốc trong bài “Welcome
to the plastic surgery capital of the world” (“Chào mừng đến với thủ đô
giải phẫu thẩm mỹ của thế giới”). Trong bài “A cut above” đăng trên
The Economist ngày 23 tháng Tư, 2012 có đoạn:
In 2010 over 3.3m procedures
were done in America, more than anywhere else, according to a report from the
International Society of Aesthetic Plastic Surgery… But when population is
accounted for, South Korea tops the list. A 2009 survey by Trend Monitor, a
market-research firm, suggested that one in five women in Seoul had gone under
the knife.
(Trong năm 2010, trên 3.3 triệu
cuộc (giải phẫu thẩm mỹ) đã được tiến hành ở Mỹ, nhiều hơn bất cứ nơi nào khác,
theo một báo cáo của Hiệp hội quốc tế về phẫu thuật thẩm mỹ…Nhưng khi tính trên
dân số, thì Nam Hàn đứng đầu danh sách. Một cuộc khảo sát của Trend Monitor,
một công ty nghiên cứu thị trường vào năm 2009, cho thấy rằng cứ năm phụ nữ ở
Seoul thì có một người từng trải qua dao kéo.)
Chuyện giải phẫu thẩm mỹ đã trở
nên quá quen thuộc đối với người dân của xứ này. Không chỉ các cô gái còn rất
trẻ cho tới phụ nữ lớn tuổi, mà cả nam giới nhiều người cũng muốn viện đến giải
phẫu thẩm mỹ để giúp cho vẻ ngoài của họ trông dễ nhìn hơn. Mà quả thật, công
nghệ giải phẫu thẩm mỹ ở quốc gia này thật tuyệt, có thể khắc phục mọi sai lầm
của tạo hóa, biến một con vịt “què” thành một con thiên nga lộng lẫy.
Hiện tượng say mê làm đẹp của
người Hàn Quốc có nhiều lý do, nhưng chắc chắn là có ảnh hưởng từ công nghệ
phim ảnh, ca nhạc luôn luôn trưng ra những diễn viên, ca sĩ, người mẫu với vẻ
đẹp hoàn hảo, sáng rỡ, phần khác từ quan niệm của dân Á đông cho rằng việc sửa
tướng, sửa những khiếm khuyết trên khuôn mặt, hình thể có thể giúp người ta may
mắn hơn, và cuối cùng là vì cơ hội lớn hơn để kiếm một tấm chồng, tìm một công
việc hay sự thăng tiến trong nghề nghiệp…
Tuy nhiên, lắm lúc nhìn các ca
sĩ, diễn viên, người mẫu cho tới người thường ở Hàn Quốc cứ có một vẻ đẹp hoàn
hảo (nhưng hơi thiếu sinh động) và giống nhau như những con búp bê bằng sứ.
Trong cuộc thi Hoa hậu Hàn Quốc năm 2013 vừa rồi, nhiều người đã hết sức ngạc
nhiên trước sự giống nhau của các ứng viên do giải phẫu, do cách trang điểm. (“Buồn
cười thí sinh Hoa hậu Hàn Quốc giống nhau như đúc”, VietnamNet, “Ám ảnh
phẫu thuật thẩm mỹ, hàng nghìn phụ nữ giống nhau đến kỳ lạ”, Lao động).
Cứ nghĩ nếu phải sống trong một
xã hội mà người ta quá chú trọng đến nhan sắc thì kể cũng khổ cho những ai
không đẹp nhưng lại không có điều kiện để đi giải phẫu thẩm mỹ chẳng hạn.
Nếu một trong những nỗi khổ hay
nỗi ám ảnh của đa số dân Hàn quốc là sắc đẹp thì với đa số dân Mỹ, chắc là job,
là time? Có việc là có tất cả-nhà cửa, bảo hiểm, lương hưu, hạnh phúc
gia đình…, mất việc là mất tất cả. Và thời gian. Dân Mỹ lúc nào cũng có vẻ tất
bật như không có đủ thời gian để làm tất cả mọi thứ. Dân Nhật cũng vậy. Vội
vàng, hối hả, tranh thủ ngủ ở bất cứ đâu có thể-trên xe bus, métro, trong quán
café… Là những quốc gia giàu có, văn minh, tự do dân chủ, đời sống cao, nhưng
có vẻ như người Mỹ hay người Nhật nói chung vẫn chưa phải là sướng, vì cứ phải
thường xuyên đối mặt với hai nỗi ám ảnh này.
Sống ở Na Uy một thời gian, tôi
có thể hiểu vì sao người dân ở xứ này thường cảm thấy hài lòng, hạnh phúc.
Không chỉ vì Na Uy cũng là một quốc gia tự do dân chủ, có đời sống kinh tế cao
và ổn định, có chế độ an sinh xã hội rất tốt, một đất nước bình yên với tỷ lệ
tội phạm rất thấp…mà còn vì những lý do khác.
Thứ nhất, nhịp sống ở xứ này
không nhanh, không quá căng thẳng như ở Mỹ hay Nhật. Thậm chí có thể nói là
chậm. Người Na Uy làm việc vừa phải, số giờ làm việc mỗi ngày của công chức,
người lao động là 7 giờ 30 phút. Thứ bảy, CN nghỉ. Đa số cửa hàng, quán xá,
siêu thị…cũng nghỉ ngày CN. Thường chỉ có dân nhập cư, trong đó có dân Việt
mình, là vẫn mở cửa siêu thị, quán xá vào ngày CN để kiếm thêm thu nhập. Một
năm có khá nhiều ngày lễ, ngày nghỉ. Rất ít người, cũng lại trừ dân nhập cư, là
tranh thủ đi làm cùng lúc 2,3 job.
Đó là nói về nhịp sống. Thứ
hai, người Na Uy sướng vì ít phải lo nghĩ, nói đúng như ngôn ngữ của người Việt
“cái gì cũng có nhà nước lo”, nhưng ở đây là nhà nước lo thật sự. Con cái sinh
ra có nhà nước phụ nuôi đến năm 18 tuổi, đi học tiểu học, trung học miễn phí,
lớn lên học đại học bất kể cha mẹ giàu nghèo, kinh tế như thế nào đều có thể
mượn nợ ngân hàng, sau ra đi làm trả. Một khi đã có việc làm thì trong suốt
cuộc đời bất cứ việc gì cần như lập gia đình, mua nhà, sắm xe…đều có thể vay
ngân hàng trả dần vào lương. Thất nghiệp có nhà nước nuôi một thời gian. Đau ốm
vào bệnh viện miễn phí. Già cả có lương hưu, có tiền già đủ sống thong thả
không phiền đến con cái. Còn nếu chẳng may mới sinh ra đã tàn tật thì nhà nước
sẽ nuôi cả đời v.v…
Nhưng tất cả những điều này thì
không riêng gì Na Uy mà ở rất nhiều quốc gia có chế độ an sinh xã hội tốt,
người dân cũng đều được hưởng như nhau. Điều quan trọng nhất, khiến cho người
ngoài nhìn vào cũng cảm nhận được người Na Uy sướng, có lẽ là vì họ ít bị sức
ép bởi những khuôn mẫu, giá trị nào đó trong xã hội.
Không bị ám ảnh bởi thời gian,
người Na Uy cũng không bị ám ảnh bởi việc phải kiếm thật nhiều tiền, phải có
bằng cấp, địa vị. Bởi trong một xã hội mà khoảng cách giàu nghèo không quá
chênh lệch, cũng không quá coi trọng địa vị thì một bác sĩ, luật sư hay một
người công nhân làm đường, tài xế xe bus, phục vụ nhà hàng đều cảm thấy bằng
lòng.
Người Na Uy cũng không bị ám
ảnh bởi hình thức bên ngoài. Dù xấu, đẹp, có những khiếm khuyết gì trên khuôn
mặt, vóc dáng…cũng chẳng phải tự ti. Người khuyết tật, chậm phát triển vẫn sống
bình thường giữa lòng xã hội, không hề bị bất cứ sự kỳ thị, phân biệt đối xử
nào.
Chỉ riêng chuyện ăn mặc cũng
vậy, người Na Uy ít chạy theo thời trang, ít bị ám ảnh bởi thương hiệu. Trong
cái nhìn của cá nhân tôi, dân Na Uy nói chung ăn mặc…không đẹp. Chỉ cần so sánh
với dân Pháp hay dân Ý thôi, cụ thể là so sánh dân Oslo với dân Paris hay Roma,
rõ ràng là ở hai thành phố sau, số đông có goût ăn mặc đẹp, thanh lịch, có
phong cách...hơn nhiều.
Còn ngay ở Oslo, nếu bạn đứng
giữa khu trung tâm thành phố suốt cả một ngày trời, cũng không có nhiều người
biết cách ăn mặc phù hợp với vóc dáng, biết cách phối màu, phối đồ hài hòa với
nhau. Nhưng sống lâu rồi thì thấy như vậy lại tiện, mình có ăn mặc không đẹp,
không thời trang lắm cũng chả sao.
Nhưng nhiều người Na Uy lại có
nỗi bận tâm khác: sức khỏe. Sống ở một cái xứ mà thời tiết thuộc loại khắc
nghiệt, một năm mùa đông kéo dài đến 5,6 tháng, tuyết phủ trắng trời trắng đất
với nhiệt độ thấp hàng chục độ dưới 0 độ C và hầu như không có nắng, nếu không
quan tâm đến sức khỏe là rất dễ bị bệnh. Chính vì vậy, dân Na Uy và dân mấy xứ
Bắc Âu nói chung rất chú trọng đến thể dục thể thao và ăn uống, nào phải uống
dầu cá hàng ngày, uống sữa, ăn nhiều các sản phẩm từ sữa và các loại cá biển để
xương thêm chắc khỏe, bù cho việc thiếu ánh nắng mặt trời v.v…Còn các cô gái
tuổi teen thì lo giữ vóc dáng thanh mảnh đến mức so với các thiếu nữ châu Mỹ la
tinh, Nam Á hay Trung Đông thì rõ ràng nhiều cô gái ở đây có size ngực, mông
nhỏ hơn và gần như không có…đùi!
Đó là những “nỗi khổ” của dân
xứ giàu. Còn VN, một xứ nghèo, lạc hậu hơn nhiều nước thì lại có những nỗi khổ
khác, mà ai cũng thấy, đến mức thành ra “chuyện biết rồi, nói mãi”. Dân mình
khổ không chỉ vì đất nước vẫn thuộc loại nghèo, chưa phát triển, không chỉ vì
cái mô hình thể chế chính trị độc tài bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, nhân
quyền bị chà đạp, nhưng còn vì cái nhà nước không vì dân, không lo cho dân mà
chỉ nhăm nhăm bóp hầu bóp cổ dân bằng đủ mọi loại thuế má trên đời, khiến người
dân suốt cuộc đời luôn phải lo lắng, sợ hãi đủ thứ.
Lúc nhỏ thì lo học để thi đậu,
tốt nghiệp, học xong rồi lo chạy việc, bởi kiến thức, năng lực đâu đã đủ để tìm
được một việc làm nếu không có thân thế, quen biết, có tiền đút lót…Mọi việc
lớn nhỏ trong đời đều phải tự “cày” ra tiền để giải quyết chứ không trông chờ
gì được vào nhà nước, từ học hành, giáo dục, y tế, lúc ốm đau, thất nghiệp, tai
nạn, tàn tật…Xã hội thì ngoại trừ sự ổn định bề mặt về chính trị do được cai
trị bởi “bàn tay sắt”, ngày càng trở nên bất ổn, bất an. Tai họa có thể đến bất
cứ lúc nào, một cách hết sức trời ơi đất hỡi, chủ yếu do sự vô lương tâm, thiếu
trách nhiệm của con người, cộng với luật pháp như luật rừng.
Thêm vào đó, người Việt còn khổ
vì chịu quá nhiều sức ép bởi những giá trị khác nhau trong xã hội, mà phần lớn
là những giá trị không thực chất. Lúc còn ở tuổi đi học, từ học sinh cho đến
phụ huynh, giáo viên, nhà trường đều bị sức ép về điểm số, thành tích. Với một
xã hội còn quá chú trọng bằng cấp, người nào cũng phải cố học, cố chạy cho có
vài tấm bằng. Nhà nào dù nghèo đến đâu cũng ráng đi làm thuê làm mướn, tích cóp
từng đồng để nuôi con ăn học, mong cho con đậu đại học. Rớt đại học coi như một
trong những bi kịch lớn nhất đời người.
Người Việt khổ vì bằng cấp, khổ
vì những cái bề ngoài. Từ cái quần cái áo làm sao cho tươm tất với người ta,
rồi phải làm sao xây được cái nhà cho đẹp hơn, to hơn, tậu cái xe sang hơn nhà
hàng xóm, con cái lấy chồng lấy vợ “ngon lành” hơn người ta, ví dụ như ở một số
vùng thôn quê bây giờ thì lấy được chồng Đài, chồng Hàn là mơ ước của nhiều
thôn nữ (!)
Khổ vì chưa có thói quen dân
chủ, để chấp nhận mọi sự khác biệt, từ khác biệt trong lối sống, tư duy sáng
tác, goût thưởng thức văn hóa… cho đến quan điểm chính trị. Suy nghĩ khác, sống
khác, là dễ ăn đòn. Chính vì vậy mà người Việt ít dám nghĩ khác, sống khác. Học
sinh thường chẳng dám phát biểu khác với ý thầy cô hay sách giáo khoa. Nhân
viên không dám nói khác ý sếp, khác ý đám đông.
Trong môi trường sinh hoạt văn
hóa văn nghệ cũng vậy. Mấy ai kể cả các nhà báo, dám dũng cảm nói ngược ý kiến
của đám đông về một ca sĩ, một dòng nhạc, một bộ phim hay một tiểu thuyết nào
đó?
Người Việt vốn chưa có thói
quen dân chủ, không những ít khi chấp nhận ý kiến trái chiều mà còn sẵn sàng
ném đá những ai không giống mình và không giống với đa số. Từ những cuộc tranh
cãi về goût thưởng thức văn nghệ của đám trẻ cho tới những cuộc tranh luận
chính trị ở những người lớn hơn cũng không khác.
Nhưng suy cho cùng thì những
nỗi khổ đó cũng từ cái môi trường xã hội, giáo dục, văn hóa không có tự do dân
chủ, công bằng, không tôn trọng con người mà ra.
Một ngày nào đó khi đất nước
thay đổi, việc xây dựng lại một mô hình thể chế chính trị hay vực dậy một nền
kinh tế sẽ nhanh hơn là xây dựng lại thói quen dân chủ trong tư duy, xây dựng
lại những chuẩn mực xã hội đúng đắn (chứ không quá nhiều thứ bị “lệch chuẩn”
như bây giờ), để con người có thể sống thật hơn, giản dị hơn, đúng với bản chất
của mình, không phải chạy theo những giá trị ảo bên ngoài.
No comments:
Post a Comment