Fri, 09/06/2013 - 09:38
Bài phỏng vấn sau đây của ông
Nguyễn Tấn Dũng trên đài truyền hình trung ương Trung Quốc nhân chuyến thăm hội
chợ triển lãm ASEAN –Trung Quốc CAEXPO (từ ngày 3 đến 6-9-2013 tại Nam Ninh,
Quảng Tây) một lần nữa nói lên một thực trạng: các cấp lãnh đạo cộng sản Việt
Nam không ngang tầm với đòi hỏi của tình thế. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ nhắc
lại những công thức quen thuộc đã trở thành nhàm chán vì quá cũ và quá xa với
thực tại Việt Nam.
Thí dụ như:
"Mục tiêu điều hành kinh
tế của chúng tôi là tập trung vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng
trưởng hợp lý, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững. Kết quả đạt được là khá
tích cực: GDP của Việt Nam 3 năm qua tăng trưởng bình quân là 5,6% và dự kiến
sẽ tăng trưởng khoảng 6% trong giai đoạn 2014-2015 ; lạm phát từng bước được
kiểm soát thành công năm 2012 ở mức 6,81% và nhiều khả năng đạt dưới 7% năm
2013; nhiều ngành sản xuất chủ chốt từng bước phục hồi, các lĩnh vực kinh tế
đối ngoại, nhất là xuất khẩu và thu hút FDI tăng trưởng khá cao, các hoạt động
hội nhập quốc tế như đàm phán các Hiệp định thương mại tự do được đẩy
mạnh".
Thế nào là "chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững"? Chắc chắn ông Dũng không
biết. Đối với ông đây chỉ là một khẩu hiệu kêu, chính quyền của ông không bày
tỏ một quan tâm nào đối với môi trường. Các con số tăng trưởng mà ông đưa ra
(5,6% trong ba năm qua và dự kiến 6% trong tương lai) cũng láo lếu không kém
những con số của quan thày Trung Quốc. Thực tế là kinh tế Việt Nam đã suy thoái
và suy thoái nghiêm trọng. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng vừa được "điều
chỉnh lại" là từ 30% đến 35% thay vì 5% như chính quyền vẫn nói từ trước
đến nay. Điều chỉnh kiểu gì mà sai biệt lớn đến thế? Điều cần biết là nợ xấu
cũng có tác đông di căn và với 30% nợ xấu thì hầu như mọi khoản nợ đều có thể
là nợ xấu. Thực trang là hiện nay tất cả mọi công ty lớn tại Việt Nam đều có
những khoản hóa đơn chưa thanh toán lớn hơn nhiều lần vốn. "Thu hút FDI
tăng trưởng khá cao" là thế nào? Không lẽ ông Dũng lại không biết đầu
tư nước ngoài đang teo lại một cách thê thảm, hầu như không còn gì? Vô ý thức
không kém là câu tuyên bố "Chúng tôi mong muốn Trung Quốc trên tinh
thần “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” tiếp tục tạo thuận
lợi, mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hóa Việt Nam để từng bước giảm nhập
siêu từ Trung Quốc, cân bằng thương mại song phương". Đây cũng là một
khẩu hiệu được nhắc lại nhiều lần, nhất là trong năm qua và kết quả luôn luôn
ngược lại, nghĩa là Trung Quốc "tiếp tục tạo thuân lợi" và
nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc tiếp tục tăng lên, bởi vì nó là kết
quả của cấu trúc của hai nền kinh tế. Năm 2012 Việt Nam nhập siêu đối với Trung
Quốc 15 tỷ USD, năm 2013 con số dự đoán là trên 20 tỷ USD.
Ông Dũng cũng giống như ông
Trương Tấn Sang khi ông này tuyên bố trong cuộc tiếp tân tại bộ ngoại giao Mỹ
rằng Việt Nam hiện có mức thu nhập trung bình trong khi trên thực tế thu nhập
của một người Việt Nam chỉ sấp sỉ bằng 1/10 mức trung bình thế giới (trong đó
kể cả những nước châu Phi).
Làm sao hai người đứng đầu bộ
máy nhà nước, mà mọi người đều cho rằng còn hiểu biết hơn ông tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng, có thể nói như người không biết gì về hiện trạng kinh tế đất
nước như vậy?
Dù vậy ông Trương Tấn Sang đã
từng là trưởng ban kinh tế trung ương rồi thường trực ban bí thư, ông Nguyễn
Tấn Dũng từng là thống đốc ngân hàng nhà nước. Tại sao những người lãnh đạo đất
nước lại không cần biết gì về tình trạng đất nước như vậy? Họ làm gì
trong thời gian dài cầm quyền?
Một điểm cũng đáng nói là ông
Dũng đã bỏ thời giờ đi thăm một hội chợ không quan trọng chút nào. CAEXPO chỉ
thu hút được 52.000 khách viếng thăm năm 2012, chưa bằng 1/20 số khách thăm hội
chợ xe hơi Paris cùng năm (1.200.000 người). Để làm gì nếu không phải là để bày
tỏ sự trân trọng đối với "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện"
mà Việt Nam đã thỏa thuận với Trung Quốc? Và ông đã được thưởng công bằng một
cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình trung ương của Trung Quốc. Một lần nữa người ta có thể nhận
định các cấp lãnh đạo cao nhất của chế độ CSVN dù xung đột với nhau để tranh
giành quyền lực cũng đều đồng ý với nhau là phải thần phục Trung Quốc để
dựa vào Trung Quốc để chống lại dân chủ và dân tộc. Giữa Trung Quốc
và dân tộc họ chọn Trung Quốc. Họ cũng đều giống nhau ở chỗ hoàn toàn không
có những kiến thức mà những người lãnh đạo quốc gia phải có và không hề lo âu
trước thực trang nghèo khổ và tụt hậu bi đát của đất nước.
Đảng cộng sản đã cầm quyền gần
bốn mươi năm và đã có đủ thời giờ để đào tạo ra những người có kiến thức và khả
năng. Thực tế là những người này không thiếu trong bộ máy đảng và nhà nước cộng
sản nhưng họ không có quyền lực và tiếng nói. Quyền lực và tiếng nói thuộc về
những kẻ có tiền để xây dựng thế lực và mua chức tước. Những "cấp lãnh
đạo" này không cần có kiến thức, họ đã có quyền và tiền. Họ cũng không coi
quyền lợi của dân tộc và đất nước này ra gì cả, họ là một lực lượng chiếm đóng.
Như vậy dù muốn hay không thì
chỗ đứng của những người có trí tuệ trong đảng và nhà nước cộng sản cũng không
phải là chỗ đứng trong lòng chế độ này mà là chỗ đứng trong lòng dân tộc dưới
một chế độ dân chủ.
Phạm Đỉnh
Sau đây là nguyên văn bài phỏng vấn:
Xin Ngài Thủ tướng cho biết
chính sách kinh tế chính của Việt Nam giai đoạn hiện nay là gì và ưu tiên phát
triển lĩnh vực nào? Trong kế hoạch lớn đó, Trung Quốc có thể đóng vai trò gì?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Những năm gần đây, trong bối cảnh kinh tế thế
giới gặp nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức, nổi lên là
ổn định vĩ mô chưa vững chắc, lạm phát có nguy cơ tăng cao. Trước tình hình đó,
mục tiêu điều hành kinh tế của chúng tôi là tập trung vào bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho tái cơ
cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững. Kết quả
đạt được là khá tích cực : GDP của Việt Nam 3 năm qua tăng trưởng bình quân là
5,6% và dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 6% trong giai đoạn 2014-2015 ; lạm phát
từng bước được kiểm soát thành công năm 2012 ở mức 6,81% và nhiều khả năng đạt
dưới 7% năm 2013 ; nhiều ngành sản xuất chủ chốt từng bước phục hồi, các lĩnh
vực kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu và thu hút FDI tăng trưởng khá cao,
các hoạt động hội nhập quốc tế như đàm phán các Hiệp định thương mại tự do được
đẩy mạnh.
Trên cơ sở những kết quả đã đạt
được, nhằm hướng tới mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, Chính phủ Việt Nam đã hoạch định và triển khai nhiều nhóm giải pháp đồng
bộ.
Thứ nhất, thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững với các trọng tâm như: Tập
trung tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu tài chính- ngân hàng và tái cơ cấu các
doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh tái cơ cấu các ngành sản xuất, dịch vụ, tăng
nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm ;
tăng cường kết nối với mạng sản xuất và chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu đối với
các ngành, sản phẩm hiện có lợi thế cạnh tranh như chế biến lương thực, thực
phẩm và thủy, hải sản, may mặc và giày da... Tập trung phát triển một số ngành
ưu tiên và công nghiệp hỗ trợ như hóa dầu, điện tử và công nghệ thông tin, cơ
khí chế tạo, công nghiệp xanh và năng lượng tái tạo, phụ tùng ô tô, máy nông
nghiệp... để nâng cấp trình độ phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, thực hiện ba khâu đột phá chiến lược về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao và phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Thứ ba, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế toàn
diện, bao gồm hội nhập kinh tế quốc tế cũng như hội nhập trong các lĩnh vực
khác.
Là nền kinh tế lớn thứ hai thế
giới và là một đầu tàu quan trọng của kinh tế toàn cầu, nhiều năm qua Trung
Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và luôn thu hút sự quan tâm
lớn của các doanh nghiệp Việt Nam. Việc hai nước cùng ở trong khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương đang phát triển sôi động và cùng bước vào giai đoạn phát triển
quan trọng đang tạo nên những cơ hội rất lớn để tăng cường hơn nữa hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư, KHCN và du lịch... Chúng tôi mong muốn Trung Quốc trên
tinh thần “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” tiếp tục tạo
thuận lợi, mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hóa Việt Nam để từng bước giảm
nhập siêu từ Trung Quốc, cân bằng thương mại song phương ; tăng cường chia sẻ
kinh nghiệm và hỗ trợ Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước
mắt, tôi đề nghị hai nước cần tích cực triển khai tốt Danh mục các dự án hợp
tác trọng điểm đã thỏa thuận trong Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh
tế-thương mại Việt-Trung 2012-2016. Việt Nam cũng sẵn sàng tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư với hàm lượng công nghệ cao vào Việt Nam, nhất
là phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao; tăng cường
phối hợp với Trung Quốc trong khuôn khổ hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc, tiểu
vùng Mê Công mở rộng (GMS)…
Xin Ngài cho biết trong phiên
bản nâng cấp hợp tác Trung Quốc và ASEAN trong tương lai, Việt Nam sẽ phát huy
vai trò lớn hơn như thế nào?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Thời gian qua, nhất là sau 10 năm thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác ASEAN-Trung Quốc ngày càng được mở rộng và
phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa ASEAN-Trung Quốc trở
thành một trong những quan hệ đối thoại phát triển năng động, hiệu quả và toàn
diện nhất trong tổng thể quan hệ đối thoại của ASEAN. Hai bên đã trở thành
những đối tác tin cậy về chính trị, gắn kết chặt chẽ về kinh tế, đóng góp tích
cực và hiệu quả cho mục tiêu chung là thúc đẩy hòa bình, ổn định, và thịnh
vượng ở khu vực.
Là thành viên tích cực của
ASEAN và láng giềng gần gũi của Trung Quốc, Việt Nam luôn coi trọng và nỗ lực
đóng góp vào việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác hiệu quả
giữa ASEAN và Trung Quốc. Trong giai đoạn 3 năm 2009-2012, khi điều phối quan
hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy và tăng cường quan
hệ và hợp tác ASEAN-Trung Quốc về nhiều mặt, từ chính trị, an ninh, kinh tế,
thương mại, đến khoa học công nghệ, giao lưu nhân dân… Trong tương lai, Việt
Nam sẽ tiếp tục và kiên trì chủ trương này.
Trong thời gian tới, Việt Nam
sẽ hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy quan hệ đối tác
chiến lược ASEAN- Trung Quốc phát triển toàn diện và bền vững hơn nữa, trên cơ
sở những nguyên tắc chỉ đạo đã được hai bên xác lập và phát huy những thành tựu
to lớn đạt được trong thời gian qua, tương xứng với tầm vóc và tính chất của
mối quan hệ đối tác chiến lược. Việt Nam sẽ cùng Trung Quốc và ASEAN phát huy
tối đa hiệu quả của các cơ chế đối thoại và tham vấn ở các cấp để tăng cường
lòng tin chính trị, tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác toàn diện ASEAN-Trung Quốc trên
mọi lĩnh vực.
Việt Nam cho rằng hai bên cần
tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư thông qua các cơ chế
hiện có như Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) và Hội chợ
ASEAN-Trung Quốc (CAEXPO), hướng tới mục tiêu nâng kim ngạch thương mại lên 500
tỷ đô la năm 2015. Theo đó, Việt Nam ủng hộ việc nghiên cứu nâng cấp ACFTA trở
thành một khu vực mậu dịch tự do mang tính toàn diện, với tiêu chuẩn và chất
lượng hàng đầu, đóng góp tích cực cho tiến trình hội nhập kinh tế khu vực.
Ngoài ra, Việt Nam cho rằng hai bên cần đặt trọng tâm ưu tiên tăng cường hợp
tác kết nối giữa ASEAN và Trung Quốc, nhất là kết nối về hạ tầng cơ sở có ý
nghĩa quan trọng đối với việc gắn kết và phát triển quan hệ các mặt giữa hai
bên. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác văn hóa-xã hội, du lịch, giao lưu nhân
dân, giao lưu trao đổi thanh niên, báo chí, học thuật…, nhằm nâng cao hiểu biết
của người dân về tầm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược ASEAN- Trung
Quốc.
Về vấn đề Biển Đông, trên cơ sở
chia sẻ nhận thức chung về tầm quan trọng của việc bảo đảm hòa bình, ổn định,
an ninh và an toàn hàng hải ở Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc cần tiếp tục tăng
cường hợp tác an ninh biển, nhất là thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố DOC
đi đôi với việc đàm phán chính thức và thực chất để sớm đạt được Bộ Quy tắc COC
nhằm bảo đảm tốt hơn hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải ở Biển
Đông. Mọi tranh chấp phải được giải quyết bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở
luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982.
Tôi tin rằng quan hệ đối tác
chiến lược và hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc cũng như quan hệ song phương
giữa các nước thành viên ASEAN với Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh mẽ,
thực chất và hiệu quả, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng
chung của khu vực.
Xin cho biết đánh giá của Ngài
về Hội chợ lần này?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng:Cá nhân tôi đã có dịp 5 lần dự Hội chợ triển lãm
ASEAN-Trung Quốc (CAEXPO), tận mắt chứng kiến quá trình hình thành và phát
triển của Hội chợ. Các kỳ Hội chợ luôn để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc.
Qua 10 năm hình thành và phát triển, đến nay Hội chợ thương mại CAEXPO đã trở
thành một trong những Hội chợ thương mại có uy tín, quy mô và tầm ảnh hưởng
hàng đầu tại khu vực. Điều đó không chỉ được thể hiện qua số lượng gian hàng,
người tham dự ngày càng lớn (với 4.600 gian hàng, 52.000 khách tham quan trong
năm 2012), mà còn thể hiện qua tổng giá trị giao dịch thương mại (hơn 1,88 tỷ
USD năm 2012), qua số lượng hợp đồng kinh tế đã ký kết (tổng giá trị đầu tư lên
đến 8,2 tỷ USD).
Hội chợ triển lãm CAEXPO cũng
cho thấy sự phát triển của quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN, thể
hiện rõ nét và sinh động qua nhiều hoạt động hợp tác đa dạng, phong phú giữa
Trung Quốc và ASEAN, không chỉ trong lĩnh vực hợp tác kinh tế-thương mại, trao
đổi hàng hóa, mà mở rộng sang các lĩnh vực khác như giao thông, giáo dục, môi
trường, cảng biển, hợp tác giữa các địa phương hai bên... Có thể nói, Hội chợ
CAEXPO đã thực sự đã trở thành cầu nối quan trọng trong việc tăng cường trao
đổi, hợp tác kinh tế-thương mại, thúc đẩy hợp tác, tăng cường tình hữu nghị
giữa các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn thế nữa, Hội chợ đang ngày càng có sức
lan tỏa vượt ra ngoài phạm vi ASEAN và Trung Quốc, thu hút sự quan tâm của các
quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, thúc đẩy hợp tác liên vùng, liên
khu vực….
Hội chợ CAEXPO năm nay diễn ra
trong bối cảnh đặc biệt, đúng vào dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược ASEAN-Trung Quốc và cũng là dịp CAEXPO được tổ chức tròn 10 năm. Đây
sẽ là kỳ Hội chợ có quy mô lớn nhất kể từ khi được tổ chức cho tới nay với sự
tham dự của hầu hết Lãnh đạo, Nguyên thủ các nước thành viên.
Tôi cho rằng CAEXPO lần này là
một trong những sự kiện đầy ý nghĩa, chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của mối
quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc-ASEAN, mở ra một giai đoạn phát triển mới
trong bối cảnh liên kết kinh tế khu vực đang ngày càng gia tăng. Là thành viên
của ASEAN, đồng thời là láng giềng gần gũi, có mối quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện với Trung Quốc, trong liên tiếp 10 kỳ Hội chợ, Việt Nam
luôn là nước có đông doanh nghiệp tham gia nhất với số gian hàng nhiều nhất
trong 10 nước ASEAN.
Trong dịp CAEXPO lần thứ 10
này, như thường lệ, Việt Nam vẫn là nước có số gian hàng và doanh nghiệp tham
dự đông nhất (200 gian hàng với 110 doanh nghiệp tham gia Hội chợ). Có thể nói,
với những lợi thế gần gũi về địa lý, với tiềm năng hợp tác rộng mở, với sự quan
tâm, thiện chí và lợi ích chung của cả ASEAN và Trung Quốc, với những kinh
nghiệm tích lũy từ các kỳ Hội chợ, với vai trò cửa ngõ hợp tác giữa ASEAN và
Trung Quốc của Quảng Tây, tôi hoàn toàn tin tưởng kỳ Hội chợ lần này sẽ
thành công tốt đẹp, mang lại lợi ích chung cho cả Trung Quốc và ASEAN, đồng
thời góp phần củng cố mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
Nguồn: baodientu.chinhphu.vn
No comments:
Post a Comment