Thursday 19 September 2013

DÂN TỘC BẢN ĐỊA VIỆT NAM : MỘT VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NHÌN NHẬN (Nguyễn Công Bằng - ĐVDVN)




Nguyễn Công Bằng
Ngày 14 Tháng 09 Năm 2013

Theo tinh thần bản 'Tuyên ngôn về Quyền của các Dân tộc Bản địa' do Liên Hiệp Quốc vận động thành hình và đã được 150 quốc gia (kể cả Việt Nam) chấp thuận, thì nước ta phải có ít nhất là 30 dân tộc bản địa. Qua lăng kính nhân bản, đây là một thực tế lịch sử và chính trị không thể nào nhìn khác hơn. Và do đó, vấn đề hiện nay không còn là « Việt Nam có Dân tộc Bản địa hay không? »  mà là Chính phủ Việt Nam phải công nhận sự hiện hữu của các dân tộc bản địa và cần có chính sách tương đồng với khuynh hướng chung của cộng đồng thế giới tiến bộ.

Với thực tế có 54 dân tộc đã và đang sống trên lãnh thổ từ Bắc chí Nam, Việt Nam mặc nhiên là một quốc gia đa chủng tộc và đa văn hóa. Dù người Kinh chiếm đa số (86%) dân số song cộng đồng các dân tộc bản địa vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng, vì lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã có công lao khai phá, phát triển của nhiều thế hệ dân tộc bản địa. Hơn nữa, Việt Nam sẽ không thể có hòa bình thực sự nếu như chính phủ không nhìn nhận nguồn gốc các dân tộc bản địa, đặc biệt là là tập thể người Tây Nguyên, người Champa và người Khmer-Krom. Các chính sách kỳ thị, ngược đãi chỉ gây ra thêm nhiều mâu thuẫn nguy hại, làm mất uy tín quốc gia và gây cản trở cho tiến trình hòa đồng dân tộc. Vai trò của các cộng đồng người thiểu số cũng có ý nghĩa tương tự.

Từ nhận thức đó, ý nghĩa của cụm từ « Dân tộc Việt Nam » cần phải được hiểu một cách rộng rãi như là sự hoà hợp giữa người Kinh cùng các dân tộc bản địa và sắc tộc thiểu số, chứ không phải chỉ là tập thể người Kinh thuần túy. Một khi quan niệm Dân Tộc Mới được nhìn nhận, tất cả công dân Việt Nam đều là một thành phần chính thức của Dân tộc Việt Nam -- không phân biệt sắc tộc. Có thể nói, ý niệm sắc tộc Kinh, sắc tộc bản địa hay sắc tộc thiểu số chỉ là những từ ngữ nhằm xác định nguồn gốc chủng tộc cho những lãnh vực nghiên cứu chuyên môn, chứ không phải là tiêu chuẩn để phân định giai cấp xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế hay bất cứ quyền lợi nào khác.

Việt Nam là một dạng hợp chủng quốc và đa số người Việt ngày nay là con cháu bao đời của nhiều dòng máu sắc tộc khác nhau. Chữ « Đồng Bào » ngày nay không còn ý nghĩa hạn hẹp của những người cùng một « bọc mẹ trăm con »  như truyền thuyết, mà là những thế hệ con người đã cùng chia sẻ vinh nhục, thăng trầm, vui khổ trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Nhìn nhận được ý nghĩa này thì tất cả chúng ta -- không phân biệt người Kinh, người bản địa hay thiểu số -- sẽ có thể cảm thông, gắn bó với nhau. Từ đó, những va chạm trong lịch sử sẽ được nhìn một cách trung thực, khách quan hơn; bởi lẽ những đau thương của lịch sử không phải chỉ có các dân tộc bản địa gánh chịu, mà người Kinh cũng đã có vô số tổn hại to lớn bởi chuỗi chiến tranh gây ra bởi các dân tộc bản địa, và nội chiến giữa người Kinh. Nói cách khác, lịch sử đau thương không phải chỉ là sự mâu thuẫn, đàn áp của người Kinh với các dân tộc bản địa, mà còn là giữa người Kinh với người Kinh, và giữa các dân tộc bản địa với nhau.

Hoàn cảnh lịch sử luôn oái oăm và tàn nhẫn trong những giai đoạn có nhiều nghịch cảnh. Nhưng lịch sử là những gì đã qua để chúng ta học hỏi và rút tỉa kinh nghiệm để làm tốt hơn hiện tại và quá khứ. Vấn đề bây giờ là nhìn lại quá khứ với tinh thần nào, giải quyết khó khăn của hiện tại ra sao, và tiến đến tương lai với định hướng gì.

Có phải chăng một trong những điều kiện để phát triển bình đẳng và nhanh chóng trong thời đại hôm nay là cùng hòa đồng trong tinh thần cảm thông, tương kính và xây dựng? Tấm gương « melting pot » của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ là một ví dụ điển hình nhất, vì ở nước này, mọi sắc tộc thiểu số và dân da đỏ bản địa đều được quyền bảo tồn lịch sử và văn hoá gốc của họ, song đồng thời cũng được chính phủ khuyến khích để hội nhập một cách bình đẳng vào dòng chính. Nhờ tinh thần đó, Hoa kỳ trở thành một tấm gương tiêu biểu cho tinh thần hòa đồng các dân tộc.

Cho nên chính phủ Việt Nam, dù là với chế độ chính trị nào, cũng đều cần có chính sách phù hợp với nguyện vọng chung của các dân tộc bản địa, tương tự như chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với các bộ lạc người Da Đỏ. Sự tôn trọng đó là chủ trương cần có để hóa giải dần đi những cách biệt, mâu thuẫn do hoàn cảnh lịch sử gây ra; đồng thời giúp giữ vững các sắc thái đặc thù của từng sắc tộc, làm phong phú thêm cho lịch sử, văn hoá nước nhà.

Để thể hiện tính nhân bản và văn minh, chính phủ Việt Nam cần có chính sách trợ giúp đặc biệt cho các tập thể đồng bào bản địa và thiểu số để xây dựng sự bình đẳng cần có cho xã hội. Muốn có hòa bình thực sự để mọi sắc tộc đều có thể sống một cách hài hòa, tương kính lẫn nhau, thì mọi hành động kỳ thị hay ngược đãi đồng bào các dân tộc bản địa và sắc tộc thiểu số cần phải được chấm dứt ngay. Trong tinh thần đó, Đảng Vì Dân Việt Nam khẳng định chủ trương tôn trọng nguồn gốc, lịch sử, văn hóa và nguyện vọng chính đáng của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa cũng như sắc tộc thiểu số; đồng thời ủng hộ quyền tự quyết và tự quản của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa trong khuôn khổ Hiến pháp dân chủ và luật pháp quốc gia ở mai này.

Tóm lại, khi thực tế lịch sử ghi nhận lãnh thổ, dân tộc, lịch sử và văn hóa Việt Nam ngày nay có sự đóng góp không nhỏ từ các dân tộc bản địa, thì việc chính phủ công nhận nguồn gốc các dân tộc bản địa là một vấn đề chính đáng và khẩn thiết. Tạo được sự hòa đồng dân tộc là xây dựng được một nền tảng vững chắc cho Hợp chủng quốc Việt Nam - một tương lai tươi sáng chung cho tất cả người Việt Nam mới.

Viết ngày 14 tháng 09 năm 2013
Nhân cuộc 'Hội Luận về Các Dân Tộc Bản Địa Việt Nam' tại California
Nguyễn Công Bằng
Tổng thư ký Đảng Vì Dân Việt Nam


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(2)  United Nations Declaration on the Rights of Indigenous Peoples:

------------------------------------------

TIN LIÊN QUAN :









6 comments:

  1. Tôi thấy Nguyễn Công Bằng cố tình dối trá khi viết: "Các chính sách kỳ thị, ngược đãi chỉ gây ra thêm nhiều mâu thuẫn nguy hại, làm mất uy tín quốc gia và gây cản trở cho tiến trình hòa đồng dân tộc". Các dân tộc bản địa luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, ưu tiên đặc biệt. Các chương trình xóa đói giảm nghèo đều tập trung về đây. Đối với học sinh người dân tộc thiểu số thì được tạo điều kiện học tập tiếng nói của dân tộc mình. Tại sao Nguyễn Công Bằng viết láo thế? Phải chăng đảng vì dân của hắn là một tổ chức phản động.

    ReplyDelete
  2. Xem chương trình trên sóng truyền hình Gia Lai, mình thấy người ta đưa tin Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Ksor Phước còn phát biểu rằng: Nên bớt đầu tư về vùng miền núi, dân tộc thiểu số về đường xá bởi chi tiền để làm một con đường bê tông từ bản miền núi lên trung tâm xã mất khoảng gần 20 tỷ đồng. Trong khi dân cư qua thưa thớt. Vẫn biết đấy là chính sách của nhà nước quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số nhưng nếu tiếp tục làm thế sẽ không hiệu quả, chúng ta nên nghĩ cách khác. Nên nhớ Ksor Phước là một người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Ông phát biểu như thế thì không ai có thể nghi ngờ về chính sách ưu tiên của nhà nước, đầu tư cho người dân tộc thiểu số. Tác giả đừng cố xuyên tạc, nói rằng nhà nước kỳ thị người dân tộc bản địa

    ReplyDelete
  3. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Nguồn gốc tộc người và những va chạm, xung đột trong lịch sử để lại những dấu ấn lịch sử trong nhận thức, tình cảm dân tộc dân tộc. Lê Công Bằng đang cố khai thác nguồn gốc tộc người Chăm pa, khmer krom, Tây Nguyên để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng ly khai, tự trị gây mất ổn định trật tự xã hội. Đó là cái cớ để các thế lực bên ngoài can thiệp. Lúc đó, Lê Công Bằng có thể bám đít chúng giống như Nguyễn Hải Thần. Sẵn sàng làm tay sai để nhận bổng lộc, ơn huệ từ quan thầy.

    ReplyDelete
  4. Bài viết này, Lê Công Bằng nhấn mạnh đến quyền dân tộc bản địa, quyền tự quyết dân tộc và hứa hẹn “ Đảng Vì Dân Việt Nam tôn trọng nguồn gốc, lịch sử, văn hóa của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa cũng như sắc tộc thiểu số; đồng thời ủng hộ quyền tự quyết và tự quản của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa”. Thực ra mục đích là muốn những người dân tộc ít người hiểu sai về khái niệm quyền tự quyết của các dân tộc. Từ đó kích động tư tưởng lý khai, tự trị, làm rối tình hình chính trị trong nước, giúp cho các thế lực chống phá Việt Nam gây sức ép…. Hơn nữa, Lê Công Bằng còn muốn giành thiện cảm, sự ủng hộ của những dân tộc ít người cho đảng của hắn. Một mũi tên bắn trúng hai đích. Ghê gớm thật!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Quyền tự quyết của các dân tộc được hiểu là quyền tự quyết của quốc gia được Liên Hợp Quốc công nhận, có lãnh thổ riêng, chứ không phải là một dân tộc thiểu số nào đó. Tác giả cổ vũ, nhấn mạnh khiển người đọc nhận thức sai, cho rằng Liên Hợp Quốc bảo vệ những hành động ly khai, tự trị. Thực ra, tác giả chỉ muốn thấy cảnh Việt Nam gặp phải bao loạn, nhà nước suy yếu, lúc đó có nhiều cơ hội chống phá.

      Delete
  5. Thực tế, Nhà nước luôn có những chính sách nhằm cải thiện đời sống của các dân tộc thiểu số, để các dân tộc được phát triển đồng đều. Con em người dân tộc được ưu tiên trong quá trình tuyển sinh, đào tạo, tìm việc làm. Văn hóa của các dân tộc được chú ý giữ gìn. Tôi đọc bài của Lê Công Bằng, gói gọn mục đích của bải viết nhằm tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước về vấn đề dân tộc, gây chia rẽ, mất đoàn kết, tạo tiền đề cho việc lôi kéo người dân tộc thiểu số vào các hoạt động lật đổ chính quyền của các tổ chức chống đối nói chung và đảng vì dân nói riêng.

    ReplyDelete

View My Stats