Nguyễn
Minh Thành
Tháng
7 12, 2013
Anh
bạn tôi tên là Tráng than rằng: Người xem cứ sờ vào tác phẩm nghệ thuật, đã
treo biển cấm sờ mà họ vẫn sờ! Tôi bảo rằng: Vậy thì nên làm một triển lãm với
chủ đề: xin người xem hãy sờ vào tác phẩm. Anh bạn tôi nói đùa: Hay thành
là tác phẩm đứng đó để cho người ta sờ. Thoạt tiên tôi nghĩ, xấu hổ lắm, tôi
không dám đứng đâu, mặc dù biết là có thể đứng được. Rồi cứ nghĩ mãi, nên bây
giờ nghĩ ra một tác phẩm, không phải đứng mà, nằm. Tác phẩm mà biết trước là sẽ
bị kiểm duyệt, bị cấm.
Tác
phẩm thế này:
Tôi
sẽ hoá trang mặc áo quần và cắm râu ria sao cho giống y ông Hồ Chí Minh và nằm
trong hộp kính, phía trên không đậy nắp. Cố gắng hết mức có thể để càng giống
ông Hồ bây giờ đang nằm trong lăng Ba Đình. Nằm yên thế khoảng 1 tiếng trong
khi người xem được mời sờ vào người tôi.
Tôi
đoán rằng trong 100 người Việt Nam khi nghe đến tác phẩm nghệ thuật này thì có
đến 99,9 người đoan chắc là tác phẩm sẽ bị nhà nước cấm. Tại sao bị cấm? Chắc
hết thảy mọi người đều biết. Nhưng từ từ, chậm chậm, nghĩ về nó thì chắc cũng
không nhiều người đâu, tôi đoán thế.
Vậy
xin hãy cùng tôi bình tĩnh suy tư về điều này xem nó như thế nào.
Ông
Hồ Chí Minh là người đã trở thành biểu tượng được tôn kính nhất ở Việt Nam hiện
nay. Việc “trở thành” này là do đâu? Là do kỹ nghệ tuyên truyền của nhà nước
tạo nên lòng sùng kính của nhân dân. Nhân dân ở đây cũng là từ phát ngôn của hệ
thống tuyên truyền của nhà nước. Vì vậy nhân dân có sùng kính thật sự hay không
thì không có gì đoan chắc. Hoặc có bao nhiêu phần trăm sùng kính? Hoặc thành
phần nào trong nhân dân sùng kính? Hoặc hiểu biết của họ về ông Hồ ở mức độ
nào?… Cũng đều không có gì đoan chắc.
Như
cá nhân tôi cũng là một nhân dân, nhưng với hiểu biết của tôi thì tôi không
sùng kính ông Hồ. Song khi trên đài báo, bao nhiêu năm nay cứ nói nhân dân và
có nghĩa rằng tôi cũng ở trong số đó. Như thế thật oan cho tôi, tôi đâu có sùng
kính ông Hồ! Và trong cả nước Việt Nam, có lẽ tôi không phải người duy nhất.
Vậy có bao nhiêu người không sùng kính như tôi? Chúng ta hoàn toàn không biết.
Nếu ai có mắt thần biết được thì thật hay. Biết đâu có 3 nhân dân, hay 16 nhân
dân hay 700 nhân dân hay rất nhiều nhân dân hay bất kỳ con số nhân dân và không
loại trừ con số lên tới mức nhiều làm người ta choáng váng thì sao.
Trong
trường hợp chỉ có mỗi mình tôi trong cả nước là người không sùng kính ông Hồ,
vậy thì trên các bài báo, bài văn hay bài phát biểu phải nói là: “Nhân dân ta
thiếu một người sùng kính Bác Hồ” mới đúng.
Viết
đến đây tôi liền search Google với từ khoá: “Nhân dân một lòng tôn kính bác”
sau 3 giây, liền ra một loạt kết quả, tôi lấy bài đầu tiên, xin mời vào link
này: http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=15414&Itemid=37
Đọc
bài này, quý vị thấy là loại văn kiểu gì? Riêng tôi thì gọi là loại văn nói
dối. Nhưng từ chính xác hơn là: văn điêu. “Điêu” là làm cho lồi lên trên mặt
phẳng. Nên cũng gọi là điêu khắc, nghĩa là làm lồi lên hay lõm xuống. Bài báo ở
link trên này chỉ là một ví dụ dẫn chứng, mà tôi chẳng phải nhọc công tìm kiếm.
Còn biết bao nhiêu bài và từ biết bao năm nay, cứ nguyên một điệu văn “điêu”
ấy trên toàn hệ thống tuyên truyền nhà nước.
Từ
công phu làm “điêu hoá văn” này của nhà nước từ năm 1954 đến nay, nước chúng ta
đạt kết quả là nếu tìm 10 nước nói dối nhất thế giới thì không lo trong đó
không có tên Việt Nam. Khi xã hội số đông nói dối nhau, thì xã hội ấy sao tránh
khỏi tham nhũng!
Quay
lại điều ông Hồ là biểu tượng được tôn kính nhất, thì chúng ta hãy suy xét về
tính biểu tượng thực sự là gì?
Trước
hết phải nói rằng: biểu tượng chính là nguyên nhân làm sa ngã nhân loại.
Tại
sao vậy?
Thưa:
biểu tượng được sinh ra từ một hình tượng cụ thể nào đó, dầu là người hay vật.
Nó trở thành ký hiệu và quy ước trong tinh thần. Vì thế, biểu tượng thì rất cần
thiết trong chính trị, tôn giáo hay đảng phái hay hội đoàn và nhất là trong
kinh doanh. Trong các lãnh vực trên, muốn thành công nhất thiết phải có biểu
tượng. Nếu không có biểu tượng, không thu hút số đông. Nhưng các nhóm số đông
kia lại chính là nguyên nhân của chiến tranh, chia rẽ không ngừng trong lịch sử
tiến hoá của nhân loại.
Duy
nhất chỉ có kinh doanh là còn lành mạnh hơn cả. Vì trong kinh doanh, bạn thấy
biểu tượng của coca cola chẳng hạn, bạn xem TV quảng cáo hay, bạn mua,
bạn uống. Và từ quy ước của tinh thần, bạn ít ra còn được uống vật chất, mặc dù
vẫn mất tiền như thường.
Còn
biểu tượng của chính trị, tôn giáo, đảng phái, hội đoàn thì ăn vào tinh thần
người ta và chi phối hành vi người ta theo cách phản xạ có điều kiện. Ví dụ cây
thập tự là biểu tượng của Thiên chúa giáo, thì khi nhìn thấy cây thập tự, tín
đồ Thiên chúa giáo được dạy là bái lạy tôn kính, còn người thù ghét Thiên chúa
giáo, thì thấy cây thập tự, sẽ thù ghét cây thập tự và có phần chắc, sẽ thù
ghét luôn cả người mang cây thập tự, cho dù người đó là một người đạo đức,
thánh thiện. Như vậy, người ta vì biểu tượng mà hành xử, chứ không căn cứ vào
thực tế. Lâu dần, khả năng cảm nhận và tôn trọng thực tế phai lạt dần, thậm chí
mất hẳn. Vì thế nên nhân loại đau khổ. Cuộc sống vốn kỳ diệu và thần tiên hơn
chúng ta thấy, trong khi vì hàng đống các biểu tượng chỉ làm giác quan của
chúng ta càng thu hẹp lại, cùn đi, cảm nhận càng nghèo nàn hơn.
Giả
sử một người chưa theo tôn giáo nào, (xin lưu ý là không phải người theo vô
thần cộng sản, vì những người ấy cũng là theo tôn giáo cộng sản rồi, thậm chí
tôn giáo này còn nghiệt ngã hơn nhiều tôn giáo hữu thần) thì họ lại dễ gặp Chúa
Jêsu hay Đức Phật hơn là tín đồ Thiên chúa hay Phật tử. Bởi vì người đi nhà thờ
hay lễ chùa vốn quen và tin cái tượng Chúa bị đóng đanh, hay tượng Phật trên
toà sen, cùng nến đèn hương khói. Người tín đồ từ nhà thờ đi ra mà gặp một
người hiền lễ phép nói: này bạn, tôi là Jêsu đây, thì người tín đồ sẽ rất bực
mình và mắng cái ông kia là điên và mất dạy. Mà không chừng đó là Chúa thật thì
sao? Vì giáo lý chẳng dạy Chúa đầy quyền năng, một phép lạ cỏn con như thế
chẳng lẽ không biến thành được hay sao?
Trong
khi chính lời Chúa dạy là: “Ta luôn ở cùng các con.”
Vậy
đó, người ta sẽ rất nghiêm nghị thành kính với các biểu tượng, nhưng với thực
tại thì người ta rất xem thường.
Cũng
thế giả dụ bây giờ, có một ông y như ông Hồ, râu tóc bạc phơ nói với bạn: “Này
cháu, bác đây, bác Hồ đây”, thì việc đầu tiên bạn sẽ làm với tư cách một nhân
dân, là đi báo công an. Vậy là bác Hồ lại đi ở tù lần nữa.
Tôi
nghe một chuyện từ một vị cư sĩ kể, là ông ấy đàm đạo với một mục sư về Kinh
thánh. Có đoạn ông ấy hỏi vị mục sư:
“Ngài
nói Chúa Jêsu chịu đóng đanh vì chuộc tội loài người đúng không?”
Vị
mục sư trả lời: “Đúng.”
Vị
cư sĩ hỏi:
“Nếu
giả sử lúc ấy không có ai ngoài ngài và Chúa, mà Chúa không tự đóng đanh mình
được. Chúa nhờ ngài giúp, vậy ngài có làm không?”
Vị
mục sư trả lời:
“Vì
cứu chuộc nhân loại, tôi sẽ làm.”
Cho
nên, người ta thường hay bỏ quên thực tại ngay trước mắt mình như thế đấy. Từ
điểm khởi đầu chúng ta là đi tìm cái tốt đẹp, nhưng các biểu tượng che mắt chúng
ta dần dần, đến nỗi chúng ta một ngày cũng giết Chúa luôn trong niềm tin rằng
đó là việc tốt. Y hệt như các cuộc thánh chiến, họ đều nhân danh Thượng đế để
giết nhau. Trong khi hầu như tôn giáo nào cũng đều nói con người là con của
Thượng đế, thậm chí Thượng đế ở trong mỗi con người.
Cho
tới khi các biểu tượng vô hiệu hoá cảm nhận độc lập của chúng ta, thì chúng ta
không còn khả năng tự đứng trên đôi chân của chính mình. Ta chẳng còn thậm chí
dám cãi nhau với Chúa một chút, rằng nếu Chúa muốn cứu chuộc chúng con thì hãy
tìm cách khác đi. Chúa là đấng toàn năng mà. Lạy Chúa tôi! Đừng bắt con phải
đóng đinh Người. Cắt tiết một con gà con còn chẳng nỡ, thì Chúa nỡ lòng nào bắt
con giết người.
Chúng
ta nên cẩn trọng với biểu tượng. Biểu tượng là sản phẩm của suy nghĩ, chúng
không đóng góp gì cho hạnh phúc nhân loại mà chúng chỉ quy tụ đám đông và dẫn
dắt đám đông đi xa khỏi chính trái tim mình.
Tôi
dám quả quyết rằng, nhân loại thiếu thốn tình yêu đến như thế này, là do thôi
thì đủ loại các biểu tượng gây ra. Kể cả với biểu tượng cho tình yêu, cũng làm
người ta mất cảm thụ về tình yêu. Ngày lễ Valentin chẳng hạn, tại sao phải chờ
ngày đó mới mua quà tặng nhau, trong khi 365 ngày tình yêu cần được hiện diện.
Thiếu một ngày của tình yêu là một ngày địa ngục. Tiếc thay chúng ta thậm chí
sống 364 ngày vắng tình yêu. Tình yêu mới là chính thứ ta cần, trong khi điều
ta đạt được lại chỉ là biểu tượng của tình yêu. Và chúng ta than rằng đời là bể
khổ.
Nếu
con người loại bỏ những biểu tượng, để tự do tư tưởng, tự nhiên trong tư duy,
hồn nhiên trong suy nghĩ, thì thế giới này loại bỏ được biết bao phân chia,
cách biệt và áp chế. Tình thương yêu sẽ là giáo lý cho mọi tôn giáo. Chân thật
là hương thơm cho mỗi hành động, việc làm của con người. Bình an soán ngôi sợ
hãi.
Đó
là tại sao tôi nói: biểu tượng làm sa ngã nhân loại.
Tôi
nghe ai đó nói: “đập vỡ thần tượng”, hình như ông nào thời chủ nghĩa hiện sinh
thì phải. Và tôi thấy ông ấy hoàn toàn có lý.
Vì
vậy nên tôi mới nghĩ ra tác phẩm giả làm ông Hồ Chí Minh, nằm im trong hộp kính
không đậy nắp trên đây. Và đương nhiên nó sẽ không được cho phép, vì nó động
đến biểu tượng lớn nhất.
Lâu
nay hình ảnh ông Hồ nằm trong lăng đã thay thế ông Hồ thật, người đã từng là
một con người.
Mặc
dù người ta đều biết tác phẩm kia là do tôi đóng giả chứ tôi không phải ông Hồ
thật, nhưng người ta cũng không cho phép. Vì biểu tượng luôn được bảo vệ nghiêm
ngặt và cẩn trọng nhất. Mặc dù biểu tượng về ông Hồ là xuất phát từ chính ông
Hồ thật. Thế nhưng ông Hồ thật đã trở nên không còn quan trọng bằng ông Hồ biểu
tượng, người ta đã quên mất ông rồi.
Vậy
ông Hồ thật là như thế nào? Nếu mô tả thì chắc là dài lắm nên tôi chỉ nêu một
chi tiết thôi.
Ông
Hồ thật không thích nằm trong tủ kính trong lăng. Ông ấy thích được thiêu xác
và bỏ tro trong 3 cái hũ, để trên 3 quả đồi có trồng cây và các cụ già. Điều
này chính tay ông ấy viết và do nhà nước công bố. Ai không tin mua quyển “Di
chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Như
vậy tác phẩm trên đây của tôi một công đôi việc là thế này:
Một
việc là, làm người ta suy xét đến bản chất của biểu tượng là gì. Giả sử nếu
biểu tượng Hồ Chí Minh không tồn tại, thì cuộc sống sẽ như thế nào?
Một
việc nữa là, khiến người ta dừng lại một chút trước khi người ta định sờ vào
tác phẩm nghệ thuật. Vì phần đông nếu nhìn thấy tác phẩm, là ông Hồ Chí Minh
nằm đó mà lại bảo xin hãy sờ vào thì: ôi chết, ai mà dám!
Và
như bạn biết đấy, tác phẩm này sẽ không được ra đời về mặt tạo hình trước công
chúng. Vì nó bị tôi và bạn, chúng ta, những nhân dân tự kiểm duyệt trước. Tự
kiểm duyệt cũng như tự tử trong tinh thần, nhưng là cách tự tử đau đớn nhất.
Chúng
ta đừng ngạc nhiên khi văn hoá của chúng ta đang và sẽ thoái hoá vì chính những
ngày tháng sống không lành mạnh này. Cũng có người sẽ phản ứng là sao lại nói
là chúng ta không lành mạnh? Nếu bạn đã không nhận thấy thì tôi còn biết nói
sao!
Nhưng
theo hiểu biết của riêng tôi thì là sự thật đấy, chúng ta, những người Việt Nam
từ năm 1954 đến nay đã phải sống trong bầu khí rất mất tự nhiên và không lành
mạnh. Nếu đổ được tội cho Mỹ hay Pháp hay Nga… thì tốt quá, nhưng xem ra họ
không nhận trách nhiệm đâu.
Nhìn
quanh thấy ai cũng chăm lo cho gia đình và con cái được tốt nhất, nhưng không
thấy rằng: con cái mai sau phải thừa kế văn hoá và lối sống của cha ông chúng
từ năm 1954. Mà biểu tượng của văn hoá ấy là “nói dối”. Bây giờ không
cần nói: “Các em là tương lai nữa”, mà nói: “Cha anh hôm nay là của nợ của con
cháu ngày sau”.
Tôi
không thù oán gì với ông Hồ Chí Minh. Nhưng ông ấy không phải là người tôi tôn
kính. Tôi hoàn toàn tôn trọng ông ấy như một con người có đầy đủ quyền về nhân
phẩm. Lấy ví dụ cụ thể, cũng là người Việt Nam như cụ Phan Chu Trinh, thì tôi
tôn kính cụ ấy hơn ông Hồ.
Tôi
cũng trân trọng những ai tôn kính ngưỡng mộ ông Hồ, vì ấy thật là một điều
thiện lành, nhưng hãy là thật với lòng mình và để tình cảm biểu hiện tự nhiên.
Nếu một người còn sống, mình giả dối nói yêu người ta, người ta tin thế, đến
khi người ta biết thực sự mình không yêu, vậy người ta đau đớn biết nhường nào,
huống hồ người đã chết! Dối lòng và làm sai với ý nguyện của người đã chết, thì
có phải là tôn kính không?
Tôi
xin hỏi các quý vị cán bộ và nhân dân, những người đi giảng dạy và học tập
gương ông Hồ Chí Minh là: “Các quý vị có thật lòng yêu ông ấy không?” Câu hỏi
này không cần quý vị phải trả lời với ai, chỉ với chính mình và cũng không cần
phải trả lời ngay, có thể một ngày, hai ngày hay lúc nào đó, miễn là cố thử một
lần thật thà với chính mình.
Theo
tôi hiểu: với người nhìn xa trông rộng thì, thật thà là có lợi cho cả mình và
người và lợi dài lâu, còn với người thiển cận thì, nói dối là có lợi cho mình,
cái hại thì hạng người này không quan tâm. Vậy chúng ta nên chọn cho mình là
loại người nào? Và điều đó chỉ tuỳ thuộc tại nơi chính mỗi người. Và cũng chỉ
có thể chọn một chứ không thể là cả hai.
Xin
cảm ơn lời than của anh bạn tôi về chuyện sờ vào tác phẩm, mà khiến tôi lan man
nghĩ ra tác phẩm này. Tác phẩm tên là: “Xin hãy sờ tôi” hay “Tự kiểm
duyệt”. Tôi cũng chưa biết chọn tên nào trong hai tên ấy.
Đà
Lạt tháng 7 năm 2013
___________
Họa
sĩ Nguyễn Minh Thành sinh năm 1971, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội năm
1996, đã có hàng chục triển lãm tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Triển
lãm gần đây nhất: “Lời
chưa nói” (Eight Gallery, TP HCM tháng 12.2012). Đầu năm 2006, ông được dư
luận rộng rãi chú ý với bức
thư gửi Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin-Du lịch Việt Nam, sau lần bị cấm
xuất cảnh sang Côn Minh, Trung Quốc.
Đọc
thêm những bài viết khác của Nguyễn Minh Thành:
Cái bỉm của
Trương Tân và quyền không được tự do triển lãm (talawas, 2007)
Người nên
một (talawas, 2007)
Bàn
tròn mỹ thuật (Litviet, 2012)
©
2013 Nguyễn Minh Thành & pro&contra
No comments:
Post a Comment