Publié par Nhan
Tuan Truong à 01:31
Dimanche 14 Juillet 2013
Thử
phân tích các lập luận của Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Lập trường của Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam
tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được trình bày rõ rệt qua bài viết “Vietnams
Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys : Its Maritime
Claims » của TS Nguyễn Hồng Thao (TS. NHT). Không biết đây có thực sự
là quan điểm chính thức của VN, như tựa đề muốn nói, hay chỉ là ý kiến riêng
của tác giả. Điều quan tâm là một số lập luận được sử dụng trong bài có thể
không thuyết phục.
1/
Thử xét lập luận : « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có
chủ quyền ».
Lập luận này thường được dẫn đi dẫn lại ở các bài
viết của các học giả VN[i]. Ý kiến này
nguyên của học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu « La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys ». Nguyên văn lẽ ra
phải viết đầy đủ như sau :
« Dans ce contexte, les déclarations ou pris de
position éventuelles des autorités du Nord-Vietnam sont sans conséquences sur
le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement
compétent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas
d’autorité[ii] ».
Tạm dịch : trong bối cảnh đó, những tuyên bố
hay lập trường nào đó của nhà cầm quyền miền Bắc thì không ảnh hưởng lên danh
nghĩa chủ quyền. Nhà nước này không phải là nhà nước có thẩm quyền về lãnh thổ
đối với các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm
quyền.
Các học giả VN « vắn tắt » bớt, do việc
người sau trích dẫn người trước, không kiểm chứng lại nguồn. TS. NHT viết :
« It had no right to give up the territory
that it did not have[iii]”
- « Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm
quyền »
Người đầu tiên sử dụng lý lẽ này có lẽ là ông Từ
Đặng Minh Thu, qua bài viết ở đây.
Tác giả này dịch đoạn văn trên như sau :
“Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc
lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối
với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này.
Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”
Tác giả dịch « Dans ce contexte – bối cảnh
này » thành ra « trong những điều kiện này », theo tôi là không
phù hợp. Vấn đề cần tìm hiểu: bối cảnh đó là bối cảnh nào ?
Trang 122, tác giả Monique Chemillier-Gendreau nhắc
đến ông L. Thomas Bradford, trong « The Spratly Island Imbroglio : a
tangled web of conflict”; Ông này cho rằng, qua công hàm Phạm Văn Đồng,
“Vietnam réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois sur les
archipels » - « Việc Nam tái xác nhận sự công nhận của họ về chủ
quyền của Trung Quốc ở các quần đảo ».
Một số lập luận của bà Monique Chemillier-Gendreau
nhằm mục đính phủ nhận ý kiến của Thomas Bradford (cho rằng VN bị
Estoppel). Không thể diễn giải Công hàm 1958 như là « tái xác nhận
việc công nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS ».
Đó là “bối cảnh” của câu văn.
Các học giả VN, chỉ dựa vào câu « Người ta
không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm quyền », từ đó kết luận
công hàm PVD là không có giá trị ràng buộc. Điều này hiển nhiên thiếu thận
trọng. Bởi vì, nó có thể đúng trong bối cảnh này (estoppel) nhưng chưa chắc
đúng trong các bối cảnh khác (thí dụ: acquiescement).
Có hai điều cần xem xét:
1/ Vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia”
như các học giả VN đã nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền
quốc gia - compétence étatique” ở HS và TS hay không ?.
2/ Sau 1976, VN thống nhất đất nước, dĩ nhiên nhà
nước CSVN có thẩm quyền trên toàn lãnh thổ đất nước. Câu hỏi đặt ra: VN có bị
ràng buộc bởi công hàm 1958 hay không ?
Điều thứ nhất sẽ khảo sát ở dưới. Điều thứ hai, cũng
là sự lo ngại của bà Monique Chemillier-Gendreau. Ý kiến của bà học giả không
chỉ vỏn vẹn trong câu văn dẫn trên. Vài dòng trước đó bà viết :
« Néanmoins, son silence devant l’affirmation
de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un
acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration
relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[iv] »
Tạm dịch : « dầu vậy, sự im lặng (của nhà
nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể
được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố
liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân. »
Phải hiểu thể nào về « acquiescement – sự đồng
thuận » theo luật Quốc tế ? Điều này cũng sẽ nói sau đây.
2/
Về ý nghĩa pháp lý « acquiescement – sự đồng thuận » của các
« tuyên bố đơn phương ».
Điều cần nói rõ, Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958
của Trung Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố đơn phương có hình thức
« décision[v] - quyết
định » (hơn là hình thức « notification[vi] »).
Theo tập quán quốc tế hiện nay, khi quốc gia ra
tuyên bố về bề rộng lãnh hải của nước mình, thường thông báo đến các quốc gia
khác « lập trường » của nước mình qua hình thức « notification -
thông báo ». Các nước khác, nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công hàm trả
lời mang hình thức « reconnaissance[vii]
– công nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm « phản đối –
protestation[viii] ».
Bất kể tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của TQ mang
hình thức « Désision – quyết định » (mang tính ép buộc cho phía nhận
quyết định) hay « Notification – thông báo », công hàm của ông Phạm
Văn Đồng là một Tuyên bố đơn phương, công khai, mang hình thức « công
nhận » tuyên bố của TQ. (Ở đây là công nhận tuyên bố chủ quyền lãnh thổ
cũng như việc mở rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ).
Vấn đề là, VN hôm nay có thể nói ngược lại, là chỉ
công nhận lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi vùng lãnh thổ của TQ, mà không tôn
trọng ở HS và TS, với lý do HS và TS thuộc VN hay không ?.
Như bà Monique Chemillier-Gendreau có ghi nhận,
VNDCCH đã tôn trọng quyết định của TQ qua nhiều hình thức khác nhau, trong
một thời gian dài, trong đó có việc nhìn nhận vùng biển và vùng trời của TQ tại
HS, qua bài báo trên nhật báo Nhân Dân. Mặt khác, nhà cầm quyền miền Bắc cũng
nhiều lần cho in
bản đồ trong đó ghi chú Nam Sa và Tây Sa thuộc TQ (chứ không phải HS và TS
thuộc VN).
Các động thái trên là hình thức « comportement
actif[ix] - thái độ chủ
động », dấu hiệu của « acquiescement ».
Ngoài ra, nhà cầm quyền miền Bắc đã giữ thái độ im
lặng khi TQ xâm lăng HS của VN năm 1974. Đây là hình thức « comportement
passif – thái độ thụ động », một dấu hiệu khác của « acquiescement ».
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn
phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ[x] thông qua có
nội dung :
Des déclarations formulées publiquement et
manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des
obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont
réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne
foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils
sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch : « Những tuyên bố phát biểu một
cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác
dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng
buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể
xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải
được tôn trọng ».
Công hàm 1958 hội đủ hai yếu tố « công
khai » và « ý chí tôn trọng ». Vì vậy nó có thể tạo ra một nghĩa
vụ pháp lý.
Nhà nước CHXHCNVN hiện nay - nhà nước kế thừa VNDCCH
- khó có thể cho rằng « công hàm 1958 công nhận hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc ở mọi nơi, ngoại trừ HS và TS ».
Sai lầm là vì, năm 1958, thay vì đưa ra tuyên bố
« phản đối – protestation », theo đúng như thủ tục của luật quốc tế,
nhằm bảo lưu chủ quyền của VN tại HS và TS, VNDCCH lại viết công hàm
« công nhận – reconnaissance » nội dung tuyên bố của TQ.
Theo tập quán quốc tế, các quan Tòa thường rất thận
trọng khi kết án một quốc gia trên nguyên tắc « acquiescement », nếu
chỉ đơn thuần dựa trên một vài « dấu hiệu » nào đó. Trường hợp VN,
nếu so sánh với các bản án mẫu, với thái thái độ thụ động của CSVN trước việc
xâm lăng của TQ ở HS năm 1974, cách hành sử của nhà nước CSVN qua việc nhìn
nhận và tôn trọng vùng biển, vùng trời của TQ tại HS và TS, các việc in ấn các
bản đồ, cùng với các các tuyên bố của các viên chức nhà nước… tất cả tạo nên
thành tố « acquiescement – nhìn nhận » chủ quyền của TQ tại HS và TS.
TS Nguyễn Hồng Thao dẫn vụ án xử Tân Tây Lan và Úc
cùng kiện Pháp năm 1974 lên CIJ về việc Pháp « Thử bom nguyên tử trong khí
quyển » :
“If States make statements by which their
freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called
for”.
Tạm dịch : Nếu một quốc gia có tuyên bố mà (nội
dung của tuyên bố) có thể hạn chế hành động của quốc gia này trong tương lai,
việc giải thích cần hạn chế.
Hàm ý cho rằng việc diễn giải công hàm 1958 cũng cần
sự hạn chế.
Trường hợp vụ án, các viên chức có thẩm quyền của
Pháp đã ra các tuyên bố, theo đó nước Pháp sẽ không thử bom nguyên tử trong khí
quyển nữa. Tân Tây Lan và Úc vịn vào các tuyên bố này kiện lên CIJ, yêu cầu
Pháp không được thử (khi thấy Pháp lăm le muốn thử nữa).
Ta thấy rõ ràng tuyên bố của các viên chức Pháp có
hệ quả hạn chế tự do của nước Pháp trong tương lai. Nhưng kết quả phân xử cho
thấy, phía Tân Tây Lan và Úc thắng kiện. Pháp không được quyền thử bom nguyên
tử trong bầu khí quyển (nhưng sau đó thì thử dưới lòng đất!).
Tuyên bố của ông Đồng hạn chế hành động nào của VN
trong tương lai ? Không có điều nào cả !
Vấn đề tranh chấp chủ quyền HS giữa VN và TQ bắt đầu
từ năm 1909. Còn tranh chấp TS thì sau Thế chiến II. Nhà cầm quyền VNDCCH không
thể vịn lý do “không biết” để mà tuyên bố “công nhận” đòi hỏi của TQ.
TS NHT ghi lại nội dung của điều 7[xi]
của bản Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy
ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ. Người viết đã từng tham khảo và tạm dịch (từ
tiếng Pháp) như sau:
Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc
quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng
và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn
bản phải được giải thích một cách hạn chế.
Trở lại vụ án “Thử bom nguyên tử” 1974 giữa Tân Tây
Lan và Pháp trước CIJ, Tòa cũng nhấn mạnh :
Một tuyên bố đơn phương chỉ có thể tạo nghĩa vụ pháp
lý đối với quốc gia tuyên bố khi mà nó có mục tiêu rõ rệt và cụ thể[xii].
Các tuyên bố của các lãnh đạo Pháp đã có mục tiêu rõ
rệt và cụ thể. Vì vậy nó tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc nước Pháp phải giữ lời.
Tương tự, tuyên bố của Phạm Văn đồng cũng rất rõ rệt
và cụ thể: nhìn nhận và tán thành tuyên bố về lãnh thổ cũng như việc mở rộng 12
hải lý lãnh hải của TQ. Vì vậy nó sẽ tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc VN phải giữ
lời. Có nghĩa là VN phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi nơi có liệt
kê trong bản tuyên bố của TQ. Tức kể cả ở HS và TS.
TS NHT cũng dẫn vụ án giữa Mã Lai và Singapour về
chủ quyền các đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge, CIJ[xiii],
ngày 23-5-2008 nhằm biện hộ cho công hàm 1958 :
The declaration by PM Pham Van Dong did not have a
constitutive character for giving up territory. In the case concerning sovereignty
over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, and South Ledge
(Malaysia/Singapore) regarding the Singapore argument that the Johor Authority
recognized Singapore sovereignty over those islands, the Court took a position
not to consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense
that it had a conclusive legal effect on Johor. The text of PM Pham Van Dong
does not have any constitutive character regarding South Vietnamese territory.
Consequently, it had no conclusive legal effect on the fate of the Paracels and
Spratlys.
Tạm dịch: Tuyên bố của Phạm Văn Đồng không có giá
trị thiết định cho việc từ bỏ lãnh thổ. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền
tại các đảo Pedra Branca / Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge
(Malaisie / Singapour), liên quan đến lý lẽ của phía Singapour, (nước này) cho
rằng lãnh đạo của Johor đã nhìn nhận chủ quyền của Singapour tại các đảo. Lập
trường của Tòa thì không xem lá thư của Johor có giá trị thiết định trong chiều
hướng (lá thư này) có hiệu quả pháp lý đối với Johor. Văn thư của ông Đồng
không có giá trị thiết định đối với những vấn đề lãnh thổ của miền Nam. Do đó,
không có một hiệu quả pháp lý nào trên vấn đề HS và TS.
TS NHT, cũng như nhiều học giả VN khác, thường dẫn
thí dụ về quan điểm của Tòa đối với lá thư của Bộ trưởng Ngoại giao Johor trong
vụ án dẫn trên. Nhưng việc trích dẫn này không phù hợp, nếu không nói là thiếu
thành thật.
Trong vụ án CIJ xử vụ tranh chấp giữa Mã Lai và
Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và
South Ledge, việc giải thích hiệu lực công hàm 1953 của Johor chiếm một thời
lượng lớn, từ đoạn 192 đến đoạn 230 trong biên bản ghi chép phiên xử.
Đoạn trích dẫn của TS NHT về hiệu quả lá thư của
Johor là đoạn 227, nguyên văn như sau:
227. Pour ce qui est du premier argument, la
Cour ne considère pas la réponse du Johor comme revêtant un caractère
constitutif au sens où elle aurait eu pour celui-ci un effet juridique décisif.
Il s’agit plutôt d’une réponse à une demande de renseignements. Ainsi qu’il
apparaîtra plus loin, cet argument est, compte tenu des circonstances,
étroitement lié au troisième.
Tạm dịch : về lý lẽ thứ nhất, Tòa không cho
rằng lá thư trả lời của Johor bao gồm một giá trị thiết định trong chiều hướng
nó đem lại cho lý lẽ này một hiệu quả pháp lý quyết định. Đúng ra đây là câu
trả lời cho một câu hỏi tham khảo. Cũng như nó sẽ trở lại ở phần sau, lý lẽ
này, với hoàn cảnh như vậy, có liên hệ chặt chẽ với (lý lẽ) thứ ba.
TS NHT đã trích dẫn không đầy đủ, sau đó diễn giải ý
nghĩa xa rời bối cảnh.
Ở đây Tòa không hề cho rằng lá thư của nhà nước
Johor không có hiệu lực pháp lý, mà chỉ cho rằng nó không có một hiệu quả pháp
lý quyết định cho lý lẽ thứ nhất. Vấn đề là lý lẽ thứ nhất đó là gì ?
Tòa cũng cho rằng lý lẽ này quan hệ chặt chẽ với
(cái) thứ ba. (Cái) thứ ba đó là cái gì ?
Muốn biết lý lẽ thứ nhất và « cái » thứ ba
là gì, ta phải xem đoạn 226 :
226. Pour conclure son examen de la correspondance
de 1953, la Cour relèvera trois aspects connexes de l’argumentation développée
par les conseils de Singapour à partir de celle-ci. Premièrement, Singapour a
présenté la réponse du Johor comme une «déclaration de non-revendication
expresse» ou «officielle» du titre sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh;
deuxièmement, elle a invoqué la notion d’estoppel ; troisièmement, elle a fait
valoir que la réponse du Johor équivalait à un engagement unilatéral
obligatoire.
Tạm dịch : Để kết luận việc khảo sát của Tòa về
lá thư 1953, Tòa đưa ra ba phương diện liên hệ đến lý lẽ được khai triển bởi
các Ủy viên Singapour ở lá thư này. Thứ nhất, Singapour đã trình bày thư trả
lời của Johor như là một « tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền », hay
« chính thức », về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh ;
thứ hai, viện dẫn khái niệm Estoppel ; thứ ba, lập luận rằng thư trả lời
của Johor tương đương với một cam kết đơn phương bắt buộc.
Như vậy, đoạn trích dẫn của TS NHT chỉ liên quan đến
khía cạnh thứ nhất : Singapour đã trình bày thư trả lời của Johor như là
một « tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền », hay « chính
thức », về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tức là, theo
Tòa, lá thư không có giá trị thiết định để việc « tuyên bố minh thị từ bỏ
chủ quyền » có hiệu quả pháp lý quyết định.
Điều này không có nghĩa, lá thư không có giá trị
pháp lý nào khác. Tòa còn có ý kiến riêng của tòa, có điều các học giả VN
« quên » không nhắc mà thôi.
Tòa cho rằng lá thư này là một câu trả lời của Johor
cho câu hỏi của Singapour. Câu hỏi của Singapour đại khái là : Đảo Pedra Branca/Pulau
Batu Puteh có thuộc chủ quyền của Johor không ?
Bộ trưởng Ngoại giao lâm thời Johor trả lời :
Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh không thuộc sở hữu của Johor.
Đoạn 275, ý kiến của Tòa về lá thư :
« Il s’agit de la déclaration, faite dans des
termes clairs en 1953 par le secrétaire d’Etat par intérim de l’Etat du Johor,
selon laquelle le Johor ne revendiquait pas la propriété de Pedra Branca/Pulau
Batu Puteh. Cette déclaration revêt une importance capitale ».
Tạm dịch : Về tuyên bố 1953 của Ngoại trưởng
lâm thời Johor, thể hiện bằng những lời lẽ cụ thể, theo đó Johor không tranh
dành chủ quyền đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tuyên bố này mang một
tầm quan trọng quyết định.
Cuối cùng Tòa phán đảo Pedra Branca/Pulau Batu thuộc
về Singapour, mặc dầu hồ sơ phía Mã Lai đã lập rất công phu, bao gồm nhiều văn
kiện lịch sử quan trọng, chứng minh được rằng Mã Lai có chủ quyền lịch sử tại
đảo tranh chấp.
Mã Lai bị mất chủ quyền lịch sử ở đảo này vì nhiều
lý do, ngoài lý do « effectivité », Singapour đã hành sử các quyền
chủ quyền một cách hòa bình và liên tục tại đảo này, còn có lá thư của Johor là
một yếu tố quyết định « importance capitale ».
Trở lại tuyên bố 1958 của ông Đồng, thật vậy, nội
dung lá thư không hề nói đến chủ quyền HS và TS. Nhưng lá thư này có thể diễn
giải tương tự như trường hợp lá thư của Johor, đó là « ý kiến » của
VNDCCH về một quyết định của TQ.
Ngoài ra Công hàm 1958 có tính cách pháp lý ràng
buộc của một tuyên bố « công nhận[xiv] »,
trong khi lá thư Johor chỉ là một « câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo
- une réponse à une demande de renseignements. »
3/
Vấn đề « thẩm quyền lãnh thổ » :
Trở lại câu : « Người ta không thể từ bỏ
lãnh thổ mà người ta không có thẩm quyền » mà các học giả VN dẫn tới dẫn
lui trong các bài viết. Như đã viết ở trên, điều cần phải làm cho minh bạch là
vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia” như các học giả VN đã nói hay
không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền quốc gia - compétence
étatique” ở HS và TS hay không ?.
Câu trả lời là vào khoảng 1958, VNDCCH không hề là
một « quốc gia », theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp, đơn giản vì
VNDCCH không phải là « đối tượng » của Quốc tế Công pháp.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, VNDCCH và VNCH chỉ là
« quốc gia từng phần – Etat partiel » trong một « quốc gia tổng
thể - Etat global[xv] ».
Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam là một đất nước bị
phân chia (état divisé – divided country). Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, hoặc
Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng tình trạng pháp lý
của các quốc gia[xvi]
này hoàn toàn khác với Việt Nam.
Theo định nghĩa[xvii],
quốc gia bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã
là một « quốc gia – Etat », được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, và lập
trường chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống
nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm
thời, không được nhìn nhận là đường biên giới.
Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam là một quốc
gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ X. Sau hiệp định
Genève 1954, VN bị phân chia bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lãnh thổ. Đường
phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự). Cũng theo qui
định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một cuộc bầu cử,
trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã không diễn ra. Hai miền,
từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử như là « quốc gia ».
Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại đất nước.
Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc[xviii].
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị phân chia (état
divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và Đức, ý muốn của
họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước[xix].
Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, sau khi được Anh trả
độc lập, đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh thổ và việc phân
chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai quốc gia : Ấn
Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia nhập
vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở thành
một quốc gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường hợp phân chia này hoàn
toàn khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.
Về thái độ của các nước trên thế giới, có thể phân
chia thành 4 nhóm khác nhau, có quan niệm đối chọi nhau về tư cách pháp nhân
của « quốc gia Việt Nam » trong giai đoạn 1954-1975.
Nhóm 1 : công nhận nhà nước VNCH là chính
thống, đại diện cho quốc gia Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau). Các nước tiêu
biểu của nhóm này bao gồm các nước tư bản, thuộc khối tự do như Mỹ, Pháp, Anh…
khoảng 56 quốc gia. Nhà nước VNCH cũng được nhìn nhận là đại diện chính thức
của Quốc gia VN tại các định chế quốc tế thuộc LHQ.
Nhóm 2 : công nhận nhà nước VNDCCH là chính
thống, đại diện cho Quốc gia VN (từ Lạng Sơn đến Cà Mau). Các nước tiêu biểu
của nhóm này bao gồm các nước thuộc khối cộng sản, như Liên Xô, Trung Quốc…
Nhóm 3 : chỉ gồm Ấn Độ, không công nhận bên nào
là đại diện chính thống của quốc gia Việt Nam[xx].
Nhóm 4 : Lập trường của Úc, nhìn nhận cả hai
bên VNDCCH và VNCH đều là các « quốc gia »[xxi].
Như thế, lập trường áp đảo là chỉ có 1 quốc gia VN,
hoặc do nhà nước VNDCCH đại diện, hoặc do VNCH đại diện.
Chỉ có một vài quốc gia cho rằng VN gồm 2 quốc gia
(Úc), hay không nhìn nhận phe nào (Ấn Độ).
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng nhìn nhận Việt Nam
là một quốc gia « tạm thời bị phân chia, giống như trường hợp của Đại Hàn
và Đức ». Việc này trình bày trong « Biên bản ghi nhớ » của bộ
Ngoại giao ngày 4-3-1966[xxii].
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục nhiều năm, cho đến
năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào tháng 7, yêu cầu miền
Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất đất nước.
Như thế thì lý lẽ nào để cho rằng, vào thời điểm
1958, VNDCCH và VNCH là hai quốc gia ?
Các học giả VN lập luận : hai bên VNCH và
VNDCCH trên thực tế (de facto) là hai quốc gia. Vậy giải thích làm sao, tháng
giêng 1957, khi Liên Xô đề nghị hai bên cùng gia nhập LHQ, phía VNDCCH lại
không đồng ý ? Điều này cho thấy, « trên thực tế », VNDCCH phản
đối mọi hành động pháp lý có khuynh hướng công nhận hai nước VN : VNDCCH
và VNCH.
Và khi các học giả VN nói đến « thẩm quyền lãnh
thổ » thì việc trước tiên phải xác định cho rõ là « biên giới quốc
gia ». Không một ai xác định được biên giới giữa hai « quốc
gia » VNCH và VNDCCH nó như thế nào ?!
Đường biên giới giữa hai quốc gia được định nghĩa là
đường giới hạn thẩm quyền về lãnh thổ giữa hai quốc gia, là đường bao bọc không
gian, xác định thẩm quyền về lãnh thổ.
Quốc gia Việt Nam bị phân chia, theo hiệp ước Genève
1954, đường ranh (vĩ tuyến 17) chỉ có giá trị tạm thời (để tập kết quân sự).
Đường giới tuyến quân sự tạm thời này không phải là đường biên giới. Tình trạng
pháp lý của VN lúc đó (1958) là một nước duy nhất (Etat unitaire). Khi việc thống
nhất đất nước chưa ngã ngũ, VNDCCH (hay VNCH) đều có “thẩm quyền quốc gia về
lãnh thổ” trên lãnh thổ mà hai bên tuyên bố (từ Nam Quan đến Cà Mau hay từ Lạng
Sơn đến Cà Mau). Tức bao gồm HS và TS.
Vì cùng nhìn nhận là một quốc gia duy nhất, việc
phân chia chỉ là tạm thời, do đó bất kỳ nhà nước nào, theo thể chế chính trị
bất kỳ nào, chính thống hay không chính thống, đều có bổn phận như nhau trong
vấn đề bảo vệ lãnh thổ. Thẩm quyền về lãnh thổ của các nhà nước đều bao trùm
lên toàn lãnh thổ.
Điều cần phân biệt thuật ngữ « thẩm quyền về
lãnh thổ - territorialement compétent » mà bà M. Chemillier-Gendreau đã sử
dụng với thuật ngữ « thẩm quyền quốc gia - compétence étatique ». Ý
nghĩa của « thẩm quyền về lãnh thổ » có ý nghĩa thiên về
« effectivité », trong khi ý nghĩa của « thẩm quyền quốc
gia » về lãnh thổ thiên về « chủ quyền – souveraineté ». Cả
hai nhà nước VNDCCH và VNCH đều tự nhận là « chính thống » (tức có
« compétence étatique »), đại diện cho một nước VN độc lập có chủ
quyền (souveraineté), nhưng thực ra « effectivité – việc kiểm soát lãnh
thổ » của các nhà nước này chỉ hạn chế trong vùng lãnh thổ mà họ kiểm
soát.
Thử đặt giả thuyết, cuộc trưng cầu dân ý được hai
bên đồng ý tổ chức năm 1959, đất nước thống nhất. Dĩ nhiên là không còn có
chuyện cãi cọ VNDCCH và VNCH là hai “quốc gia” hoặc các vấn đề về “thẩm quyền
lãnh thổ” như hiện nay.
Tuyên bố của ông Đồng sẽ có giá trị, nếu phần thắng
thuộc về phe miền Bắc.
Vì vậy, biện luận rằng VNDCCH và VNCH là hai quốc
gia, sau đó dẫn lời (một cách không đầy đủ) của bà Monique
Chemillier-Gendreau : “người ta không thể cho cái mà người ta không có
thẩm quyền”… đều chỉ là ngụy biện. Các học giả này không ai chứng minh rằng
VHDCCH và VNCH là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ được phân định, theo
như tiêu chuẩn của Quốc tế công pháp.
Thái độ ngụy biện không hề giúp VN giành lại HS và
TS, mà ngược lại, nó càng củng cố thêm cho lý lẽ của phía TQ.
Nhưng cũng đặt thử giả thuyết, năm 1958 VNDCCH và
VNCH là hai « quốc gia », cho đẹp lòng các học giả VN. Hệ quả sẽ ra
sao về các vấn đề lịch sử và pháp lý ?
Khi đã là « Quốc gia », VNDCCH sẽ phải là
đối tượng của Quốc tế Công pháp. Các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước
quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi « quốc
tế ».
Chiến tranh VN, tức cuộc nội chiến nồi da xáo thịt,
tên « xung kích XHCN » sừng sỏ đánh tên đại diện « tiền đồn thế
giới tự do » VNCH, qua sự ủy nhiệm của các « quan thầy quốc
tế ». Quan điểm của miền Bắc, cuộc chiến tranh « Giải phóng, Thống
nhất đất nước », sẽ phải đổi lại là chiến tranh « chinh phục, mở rộng
bờ cõi ». Quan điểm của VNCH, chiến tranh xâm lăng, dân tộc « Nam
kỳ » « mất nước », bị VNDCCH đô hộ. Quan điểm quốc tế, cuộc
chiến tranh này vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nước có bổn
phận can thiệp để bảo vệ VNCH (như trường hợp Koweit bị Irak xâm lăng qua cuộc
chiến Vùng Vịnh lần 1). Lúc đó sự can thiệp (nếu có) của Hoa Kỳ sẽ chính đáng,
(chứ không bị thế giới lên án như chiến tranh VN).
Đặt giả thuyết này để thấy rằng quan điểm hai nhà
nước VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia » là một điều rất sai, về lịch
sử cũng như về pháp lý.
4/
Vấn đề kế thừa :
TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhiều học giả VN, khi
trích dẫn câu « người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có chủ
quyền », mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo HS và TS không thuộc chủ quyền
của « quốc gia » VNDCCH.
Như vậy, sau 1976, từ bao giờ HS và TS của
« quốc gia » VNCH trở lại thuộc chủ quyền của CHXHCNVH ? Trở lại bằng
cách nào ? Kế thừa từ Cộng hòa Miền nam VN hay kế thừa VNCH ? Kế
thừa ở đây là kế thừa « Quốc gia – Etat » (vì đã nhìn nhận VNDCCH và
VNCH là hai quốc gia) chứ không phải kế thừa chính quyền (Gouvernement).
Thủ tục kế thừa đã thể hiện ra sao ?
Không thấy ai đưa ra lời giải thích rành mạch.
Trong thực tế một số đảo TS, CHMNVN chiếm được dưới
danh nghĩa « giải phóng ».
Về phía TQ, trả lời VN khi VN đòi đưa HS vào bàn
thuơng thuyết : khi nào VN chứng minh được miền Nam (tức VNCH) không thuộc
nước Việt Nam thì họ sẽ ngồi xuống đàm phán với VN về quần đảo HS. Phía VN
« ngọng » !
Đối với TS, quan niệm của TQ, VNDCCH đã chiếm trái
phép các đảo TS của TQ.
Các học giả VN, người đi sau « copy »
người đi trước, rập khuôn vào cùng một lập luận, « đóng đinh » VN
cứng đơ trên cây « thánh giá », bất khả tranh biện với TQ.
Vấn đề « kế thừa » và « liên
tục » quốc gia của VN đã được nhiều tác giả đề cập, cụ thể qua tập
« State Succession and Membership in International Organisations – Legal
Theories versus Political Pragmatism »[xxiii] của
tác giả Conrad G. Buhler (trang 69-113) hoặc Luận án của bà Mme Joële Nguyên
Duy-Tân, tóm lược qua bài « La représentation du VietNam dans les
institutions spécialisées »[xxiv].
Các tập tài liệu này đã đưa ra những tài liệu pháp
lý, cho thấy CHXHCNVN là một quốc gia mới. Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước tiếp
nối của VNDCCH[xxv].
Nhà nước này từ chối kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào thuộc về VNCH.
Những nhà lãnh đạo CSVN làm như thế là đúng với cái
« logic » của họ.
Bà Joële Nguyên Duy-Tân có đặt vấn đề :
« La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement
l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N.
peut-elle succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch : VNDCCH luôn cương quyết phủ nhận sự
hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH. CHXHCNVN có thể kế thừa một
thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu ?
Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 9-9-1978,
cho thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của thực dân Pháp (chuyển sang
VNCH) :
A la suite de la disparition de la République du Sud
VN, le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration indiquant qu’il
entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout 1955, conclus
entre la République française et l’ancien gouvernement Sud Vietnam. Il en
résulte, conformément au principes du droit international actuel en matière de
question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le gouvernement
actuel de VN et qu’il sont devenus caduc.[xxvi]
Tạm dịch : Tiếp theo sự biến mất của Cộng hòa
miền Nam, chính phủ VN mới đã không ra tuyên bố cho biết họ kế thừa các hiệp
ước 16-9-1954 và 16-8-1955, ký kết giữa Cộng hòa Pháp và chính phủ miền Nam VN
cũ. Vì vậy, chiếu theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện thời về vấn đề kế
thừa quốc gia, các hiệp ước này không còn ràng buộc chính phủ VN hiện thời và
chúng trở thành vô giá trị.
Một loạt các hành động khác, như CHXHCNVN ký kết vào
hiệp ước « Không phổ biến vũ khí nguyên tử » với tư cách một quốc gia
mới, từ chối kế thừa VNCH[xxvii].
Hoa Kỳ cũng xác nhận VNCH là một quốc gia bị gián
đoạn[xxviii] :
The Republic of Viet Nam, both of a state and
government, had ceased to exist in law or fact and the United States had not
recognized any government as the sovereigh authority in the territory formerly
known as South Viet nam
Tạm dịch: Việt Nam cộng hòa, quốc gia và chính
quyền, đã ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lý và thực tế. Hoa Kỳ không công
nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lãnh thổ trước kia mang tên Nam Việt Nam.
TS NHT lập luận CHXHCNVN kế thừa HS và TS từ CHMNVH.
Vậy thì nhà nước CHMNVN đã thụ đắc danh nghĩa chủ quyền tại HS và TS khi
nào ? Từ nhà Nguyễn, chính quyền thực dân Pháp hay VNCH ?
Tuyên bố của bộ Ngoại giao Pháp 9-9-1978 dẫn trên
cho thấy lập luận của TS NHT về kế thừa HS và TS là không có cơ sở.
Như vậy, lập luận VNDCCH và VNCH là « hai quốc
gia » đã đưa VN vào bế tắc.
Trong khi lập luận « hiệp định Genève 1954 phân
chia VN thành hai quốc gia » nguyên thủy là lập trường của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một « tác nhân » trong cuộc
chiến VN. Vì lo ngại xảy ra một « chiến tranh Cao Ly thứ 2 » với
Trung Cộng, đồng thời bảo đảm việc can thiệp vào VN phải phù hợp với các nguyên
tắc về chiến tranh theo qui định của quốc tế « jus ad bellum » và
« jus in bello »[xxix],
HK muốn biến miền Nam thành một « tiền đồn chống cộng » vững chắc. Do
đó nước này có ý muốn thành lập ở miền Nam một « quốc gia » đúng
nghĩa.
Nội dung bức thư[xxx]
của Eisenhower gởi ông Diệm này 1-10-1954 : chúng tôi sẽ giúp cho VNCH xây
dựng thành một « quốc gia » phú cường, có khả năng chống lại
mọi loạn lạc bên trong cũng như những gây hấn bên ngoài.
Tháng 12 năm 1961, trả lời thư ông Diệm, TT Kennedy
hứa hẹn[xxxi] :
« Chúng tôi sẵn sàng giúp chính quyền VNCH để bảo vệ người dân trong nước,
để giữ vững nền độc lập của đất nước ».
Hoa Kỳ muốn xây dựng miền Nam VNCH trở thành một
« quốc gia » hùng mạnh, có tính chính thống, duy nhất đại diện quốc
gia VN. Cuộc chiến VN sẽ cuộc chiến « xâm lược », vì miền Bắc vi phạm
hiệp định Genève, xâm lược miền Nam. Từ đó Hoa Kỳ mới có lý do vịn vào để đổ
quân vào VN, tương tự như chiến tranh Cao Ly. Nhưng VNCH không trở thành một
quốc gia « chính thống » và « hùng mạnh », vì song song đó,
các nước XHCN cũng giúp VNDCCH trở thành một quốc gia « chính thống »
và « hùng mạnh » khác. Cuộc chiến mà Hoa Kỳ lo ngại (trường hợp Bắc
Hàn xua quân đánh Nam Hàn) đã không xảy ra, vì lãnh đạo CSVN đã áp dụng phương
sách của Mao Trạch Đông, dùng « du kích chiến », nuôi dưỡng con bài
MTGPMN đồng thời mở mặt trận chính trị tuyên truyền, bôi nhọ việc can thiệp của
HK vào VN và kích động những trí thức ở miền Nam trở thành « phản
chiến ».
Cuộc chiến « hao mòn » này đã làm cho HK
hụt hơi, như chiến tranh Afghanistan hiện nay, trong khi dư luận trong và ngoài
nước chống lại cuộc chiến. Cuối thập niên 60 HK thay đổi quan niệm về VN, đồng
thời công nhận hai thực thể chính trị khác, cũng « đại diện cho VN »,
là VNDCCH và CHMNCH. Lập trường của Hoa Kỳ thay đổi, kéo chính phủ VNCH xuống
ngang hàng với MTGPMN, chuẩn bị tư thế « đồng minh tháo chạy ». Những
hứa hẹn của Eisenhower, Kennedy (và Nixon sau này) trở thành vô ý nghĩa. Tình
trạng pháp lý của quốc gia Việt Nam do đó lại càng rắc rối hơn.
Vấn đề kế thừa của VN, thay vì « kế thừa chính
quyền - succession gouvernement » lại trở thành « kế thừa quốc gia –
succession d’état ».
Kế thừa chính quyền thuộc phạm vi « nội
bộ » của quốc gia, « trong nhà đóng cửa dạy nhau » trong khi kế
thừa quốc gia thuộc phạm vi quốc tế. Chuyện nội bộ có thể thay đổi hay sửa chữa
nhưng chuyện thuộc phạm vi quốc tế thì sẽ rất khó khăn.
Các học giả VN lựa chọn con đường khó khăn
« đóng đinh trên thánh giá ». Mất nước do đó trước hết là do mình.
5/ Giải pháp nào ?
Nội dung Nguyên tắc hướng dẫn của LHQ về
« Acquiescement – sự đồng thuận » đã ghi ở trên : « Những tuyên
bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên
bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý... Khi các điều kiện
được hội đủ, Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn
cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng ».
Các điều kiện đã hội đủ : CHXHCNVN là nhà nước
tiếp nối nhà nước VNDCCH, có đầy đủ thẩm quyền quốc gia về lãnh thổ, trên
phương diện thực tế cũng như trên phương diện pháp lý. TQ có thể bất cứ lúc
nào, dựa vào tuyên bố 1958, đòi hỏi VN tôn trọng.
Đứng trước đòi hỏi này, VN ở vào thế yếu về cả hai
mặt : pháp lý và tương quan lực lượng. Trong khi quan niệm của TQ ngày
càng cứng rắn: những gì thuộc chủ quyền lãnh thổ quốc gia đều thuộc lào “lợi
ích cốt lõi” của TQ.
Các giải pháp có thể xảy ra như sau:
1- Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực để
giải quyết vấn đề chủ quyền. VN sẽ đứng vào thế yếu vì vừa không đủ sức bảo vệ
cũng như không có đồng minh tin cậy giúp đỡ.
2- Việt Nam cố gắng giải quyết vấn đề
thông qua thuơng lượng, phù hợp với “luật quốc tế” về việc không thực hiện được
các tuyên bố đơn phương[xxxii]
(công hàm 1958). Nhưng việc thuơng lượng cho thấy VN khó đạt được giải pháp mà
người dân dễ dàng chấp thuận. VN cố gắng tập trung vào việc “hải phận 12 hải
lý” ở các đảo, trong khi TQ đi hai bước: đường chữ U và hiệu quả Kinh tế độc
quyền ZEE (200 hải lý) của các đảo. Nếu VN bác được đường chữ U thì cũng khó
bác bỏ vùng ZEE các đảo, bởi vì chính VN cũng đã từng chủ trương như vậy. Làm
thế nào anh có quyền cấm người ta khi anh cũng chủ trương y như vậy? Cho dầu VN
có từ bỏ tuyên bố năm 1977 về ZEE cho các đảo, cũng không thể ngăn cản được TQ.
Đòi hỏi này không hề vi phạm Luật quốc tế về Biển 1982.
3- Mong muốn của VN hiện nay là giữ
nguyên trạng. Để đạt được điều này VN nhượng bộ cho TQ quyền lợi chiến lược ở
các lãnh vực kinh tế, văn hóa, quân sự v.v… với hy vọng TQ sẽ ký kết hiệp ước
“COC” với ASEAN. Nhưng việc nhượng bộ chiến lược, thể hiện qua một loạt hiệp
ước vừa ký kết, sẽ đẩy VN đi nhanh vào vòng lệ thuộc TQ. Chưa nói đến các hiệp
ước vừa ký kết phải được xếp vào loại “bất bình đẳng”. Bất kỳ kiệp ước nào ký
kết giữa hai quốc gia cũng đều ảnh hưởng đến sự độc lập (la souveraineté) của
quốc gia. Các hiệp ước vừa ký, sẽ viết trong bài tới, cho thấy VN không khác TQ
trong thời kỳ bị liệt cường phân xé, hậu bán thế kỷ 19, phải ký các hiệp ước
nhượng bộ cho nước ngoài những điều khoản không chấp nhận được.
4- Vấn đề “hòa giải dân tộc” cho
thấy sẽ không có có hội thực hiện. Việc kế thừa danh nghĩa VNCH đã không xảy
ra. Các vụ bắt bớ sinh viên Phương Uyên, Nguyên Kha vì tội “rải truyền đơn cờ
vàng ba sọc âm mưu chống chế độ…” cho thấy nhà nước CSVN vẫn bất dung mọi dấu
hiệu thuộc về chế độ VNCH. Hiện nay, VN cố thực hiện nghị quyết 36, “hồi chánh”
các viên chức VNCH cũ, cho vào dự hội thảo, cho lên truyền hình… để tuyên
truyền chủ trương của nhà nước CSVN. Lãnh đạo CSVN muốn dùng các “học giả” VN hốt
những thang thuốc có hiệu quả ru ngủ, đánh lạc hướng mọi sự thật cần phải biết
về HS và TS. Lãnh đạo CSVN bị lâm vào thế trên đe (TQ) dưới búa (dư luận trong
nước). Người dân phẫn nộ hành vi của TQ tại biển Đông, lãnh đạo CSVN tìm mọi
cách cho người dân không thấy nguyên nhân của vấn đề: hành vi bán nước của
mình.
Sắp tới, xương máu người dân VN có thể sẽ phải đổ
xuống để bảo vệ chủ quyền của VN tại biển Đông. Nguyên nhân là do lãnh đạo CSVN
không giữ lời hứa của họ với TQ. Dĩ nhiên có những giải pháp hòa bình khác,
thay vì chiến tranh, 1954-1975, cuộc chiến biên giới 1979, cuộc chiến
Kampuchia… Lãnh đạo CSVN luôn lựa chọn các giải pháp tồi tệ nhất. Lãnh đạo CSVN
sẽ tiếp tục đưa nhân dân VN “lên giàn lửa thiêu”, kích động tinh thần dân tộc
trong tầng lớp dân chúng, đẩy mũi dùi chống đối về phía một địch thủ khác, để
bảo vệ chế độ.
Từ xưa đến nay sĩ phu VN luôn phò chính thống. Vì lẽ
sống của họ phụ thuộc vào quyền lực của người lãnh đạo. Điều này có thể thông
cảm, do trường hợp giảm khinh. Nhưng sĩ phu VN hải ngoại không thể vì chút
quyền lợi nhỏ nhoi mà bán rẻ lương tâm của mình. Không bảo toàn được lãnh thổ,
máu xương người dân đổ xuống, trách nhiệm là do người lãnh đạo. Nhưng phần
trách nhiệm về lịch sử, về đạo đức và lương tri, là do sĩ phu nhận lãnh, mà
nhóm người hải ngoại lãnh phần nhiều.
5- Việc đưa vấn đề tranh chấp ra một
trọng tài quốc tế phân giải sẽ không có hy vọng xảy ra, khi mà CSVN còn nắm
quyền lãnh đạo. VN hiện nay còn không dám lên tiếng công khai ủng hộ Phi trong
vụ kiện TQ, huống chi lên tiếng thách thức TQ giải quyết tranh chấp bằng các
phương tiện của công lý quốc tế. Trong khi sĩ phu vẫn còn đang dắt díu, người
sau nắm chéo áo người trước, lầm lũi đi theo “tấm chỉ đường của trí tuệ”, mà
không biết sẽ đưa về đâu ?.
VN có nhiều hy vọng thắng kiện, nếu và chỉ nếu,
chính quyền VN (hiện tại hay trong tương lai) kế thừa danh nghĩa của VNCH. Mà
việc kế thừa chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp “hòa giải quốc gia”.
Việc “hòa giải quốc gia”, trên bình diện chính trị,
chỉ có thể thực hiện nếu tương quan lực lượng hai bên “ngang cơ” với nhau.
Nhưng khi việc “hòa giải quốc gia” là một phạm trù thuộc đạo đức, tương quan
lực lượng là tương quan giữa “cái đúng, cái sai”, giữa “đạo lý và phi đạo lý”…
Như vậy, lực lượng vô minh vẫn áp đảo trong xã hội.
Những tuyên bố về HS và TS, như Luật biển 2012 của
VN, tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng… đều không có giá trị pháp lý trên phương diện
quốc tế công pháp. Việc không dùng tiếng “ngụy” chỉ người VNCH cũ, như có học
giả vừa nói, không hề là dấu hiệu của việc “hòa giải”, hay thể hiện hành vi
kế thừa VNCH.
[i] Ngoài TS Nguyễn Hồng Thao và hầu hết cảc nhà nghiên cứu trong nước, còn
có các ông Thái Văn Cầu, Tạ Văn Tài cùng một số nhân vật khác ở nước ngoài.
[ii] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels
Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 123.
[v] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit
International Public, L.G.D.J, 8e Edition, đoạn 242, tr 405
[ix] Jean Barale, L’ acquiescement dans la jurisprudence internationale,
In: Annuaire français de droit international, volume 11, 1965. pp. 389-427. http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1965_num_11_1_1827
[x] Texte adopté par la Commission du droit international à sa
cinquante-huitième session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans le
cadre de son rapport sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le rapport,
qui contient également des commentaires sur le projet d’articles, sera
reproduit dans l’Annuaire de la Commission du droit international, 2006, vol.
II(2).
[xii] Essais nucléaires (Australie c. France; Nouvelle-Zélande c. France),
C.I.J. Recueil 1974, p. 267, par. 43, p. 269, par. 51 et p. 472, par. 46, p.
474, par. 53
[xiii] Souveraineté sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South
Ledge (Malaisie/Singapour), arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN
0074-4441 ; ISBN 978-92-1-071046-6
[xviii] Việc gia nhập LHQ chưa chắc là một yếu tố để chứng minh lãnh thổ đó là
một quốc gia nếu ta xét trường hợp của Ukraine và Bielorussis. Thật vậy, hai xứ
này, trong thời kỳ thuộc Liên bang Xô viết, đã gia nhập LHQ (từ khi LHQ mới
thành lập). Hai « quốc gia » này thực ra chỉ là một phần « lãnh
thổ » của URSS mà thôi.
[xix] Đây là lập trường của nhiều học giả trên thế giới. Một số thí dụ :
Gilbert Caty, in Les Statut Juridique des Etats Divisés ; James
Crawford, in The Creation the States in International Law, tr
472-477. Conrad G. Buhler, in State Succession and Membership in
International Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism,
tr94-103…
[xxii] State Department, 4-3-1966, « The legality of US participation
in the Defense of Vietnam” dẫn từ Gilbert Caty, Les Statut Juridique des
Etats Divisés, sdd, tr 12.
[xxiii] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in International
Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism , tr 68-113.
[xxiv] Nguyen Duy Tan Joële. La représentation du Viet-Nam dans les
institutions spécialisées. In: Annuaire français de droit international,
volume 22, 1976. pp. 405-419. doi : 10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
[xxv] Tuyên bố CHXHCNVN gởi chính phủ Thụy Sỹ, dẫn từ Conrad G. Buhler, sdd,
tr 104 : The S.R.V will continue the participation of the DRV and the RSV in
the four “Geneva convention of 1949” concerning the protection of war civil
victims with the same observations as those set forth by the DRV and the SRV.
Ta thấy VN đã sử dụng chữ “tiếp tục” thay vì “kế thừa” VNDCCH.
[xxvi] Conrad G. Buhler, State Succession and Membership in International
Organisations – Legal Theories versus Political Pragmatism, tr 107.
[xxix] Đương nhiên, các « qui tắc » về chiến tranh này đều do họ đặt
ra, dự tính có khi từ 30-40 năm trước, nếu chúng ta tin theo tài liệu của Cf.
Major J. B. Kelly, « Legal Aspects of Military Operations in Counterinsurgency
», Military Law Review, juillet 1963
[xxx] Isoart Paul. Les conflits du Viêtnam. Positions juridiques des
États-Unis. In: Annuaire français de droit international, volume 12, 1966.
pp. 50-88. http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1966_num_12_1_1870
No comments:
Post a Comment