Tue, 07/23/2013 - 23:25 —
ledienduc
Ngày 23/7/2013, ông Trương Tấn Sang đã lên đường đi Mỹ.
Không biết trong hành trang của ông có hồ sơ của blogger Điếu Cày Nguyễn Văn
Hải hay không?
Vài ngày trước chuyến công du,
dư luận trong và ngoài nước đã phẫn nộ trước việc anh bị biệt giam và thực hiện
tuyệt thực đã nhiều ngày. Báo chí lề phải im lặng tuyệt đối. Không một tờ nào
nói gì, dù chỉ là hình thức đưa tin.
Nhưng chả lẽ hàng ngàn dư luận
viên, các chuyên gia, cố vấn không chuyển thông tin tới ông. Và cả bản thân ông
nữa, ông chỉ biết đến tin tức từ báo lề phải? Còn BBC, RFI, RFA... ?
Tôi tin là trong đống hồ sơ về
nhân quyền mà Trương Tấn Sang đối thoại với Mỹ, thành tích mới mẻ này chắc chắn
có. Bởi vì trường hợp của Blogger Điếu Cày, người được tổ chức Human Rights
Watch trao giải thưởng Hellman-Hammett 2009, đã được Tổng thống Barack Obama
lưu ý và kêu gọi "chúng ta không được quên Điếu Cày" trong Ngày Báo
chí Tự do Quốc tế mới tháng 5 năm vừa rồi.
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền
Human Rights Watch cũng đã lên tiếng lo ngại về tình trạng sức khoẻ của Điều
Cày và kêu gọi trả tự do cho anh.
Nhật
báo Washington Post đã đăng tin về sự tuyệt thực của anh và nhắc tới
"thành tích mới" này trước chuyến đi Mỹ của chủ tịch Trương Tấn Sang.
Thật là bất tiện và khó ăn nói
khi chủ nhà hỏi thăm về tình trạng của Điếu Cày mà bên khách chỉ ghi nhận xem
xét hoặc chống chế bằng cách nói "trại giam đã làm đúng với pháp
luật".
Muốn gì thì muốn, cho dù nhân
quyền không phải là chủ đề trọng tâm trong vấn đề an ninh và hợp tác trên biển
Đông nhằm ngăn chặn sự bành trướng và khiêu khích ngang ngược của Trung Cộng,
nhưng nó vẫn là vật cản, làm tắc nghẹt sự chuẩn thuận của Hạ Viện Mỹ về việc
bán vũ khí sát thuơng cho Việt Nam và tham gia Hiệp ước đối tác xuyên Thái Bình
Dương TPP.
Cho nên, không thể xem nhẹ.
Trong tổng hợp toàn bộ các vấn đề, nhân quyền là sợi xích liên kết và có một
sức nặng nhất định. Nhất là khi Tổng thống Obama vẫn kêu gọi Việt Nam cải thiện
nhân quyền và nhiều dân biểu quốc hội Mỹ, đặc biệt Trưởng Ban Đối ngoại Hạ viện
Ed Royce trong cuộc họp báo ngày 23/7/13 đã lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền
và "muốn xóa bỏ điều 79, điều 88 trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam và Chính
phủ hãy để người dân có được tự do nhân quyền". Còn bà dân biểu Loreta
Sanchez cho hay, nếu Việt Nam không thay đổi thì "sẽ không có được trong
tay một thoả thuận thương mại kinh tế nào đáng kể".
Trại giam chỉ là nơi giam giữ
người, tuyệt nhiên không thể thay vai trò của toà án bắt tù nhân nhận tội. Anh
Điếu Cày, trước toà án đã khẳng định mình vô tội, nếu có đó chỉ là tội yêu nước
và chống Tàu xâm lược, và chính vì thế, anh đã nhận bản án hết sức nặng nề, 12
năm và 5 năm quản chế. Do vậy anh không thể nào chấp nhận yêu cầu quái gỡ ấy
của trại giam. Trại giam đã làm trái với luập pháp hiện hành của chính họ, đã
vượt quá thẩm quyền.
Biệt giam anh Điếu Cày để trừng
phạt khi anh không nhận tội là một hành động hèn nhát, độc ác, vô nhân đạo, ỷ
thế bạo lực của kẻ mạnh bắt nạt người thân cô thế cô.
Ý chí bất khuất tranh đấu vì sự
công bằng và công lý của anh Điếu Cày là gương sáng cho tất cả những người yêu
chuộng tự do và cho thấy rằng, không phải trong cái nhà tù lớn Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam nhân quyền bị chà đạp, mà cả trong nhà tù nhỏ, con người đã
mất tự do rồi vẫn tiếp tục bị xúc phạm phẩm giá một cách thô bạo và tàn nhẫn.
Không biết hiện trạng sức khoẻ
của anh ra sao, nhưng sự chịu đựng của cơ thể qua ngày thứ 32 rồi dường như là
đã vượt qua giới hạn. Anh hiên ngang chấp nhận sự rủi ro nhất: cái chết. Chỉ
mong rằng điều bất hạnh và bi kịch này không xảy ra.
Nhưng trường hợp của anh là
tiếng chuông cảnh báo, là tín hiệu đỏ cho giới chức Hoa Kỳ trong cái nhìn về
nhân quyền tại Việt Nam. Những lời ong bướm hứa hẹn của họ chỉ là trò phỉnh,
lừa gạt.
Biết đâu chính trường hợp của
anh Điếu Cày lại là vật cản khó qua nhất của dòng chảy đối thoại nhân quyền
Việt -Mỹ trong chuyến công du của chủ tịch Trương Tấn Sang.
© 2013 Lê Diễn Đức - RFA Blog
--------------------------------
Tue, 07/23/2013 - 11:27 —
tuongnangtien
Từng phút một, hình hài đáng
quý trọng ấy có thể giã từ chúng ta, làm thế nào loại trừ để khả năng đáng ân
hận ấy không thể xảy ra, không được xảy ra?
Dù chưa bao giờ tuyệt thực
nhưng cái đói thì tôi chả xa lạ gì. Lắm người Việt Nam (e) cũng thế. Mà nghĩ
cho cùng thì đói ăn, thiếu mặc đều là những chuyện rất bình thường đối mọi
công dân nơi đất nước theo chủ nghĩa cộng sản – chứ chả riêng chi ở xứ sở
mình.
Chỉ có điều không bình thường
là riêng với chúng tôi – những sĩ quan của quân lực miền Nam, phần lớn khi
tuổi đời vừa mới đôi mươi – đã phải đối diện với sự đói rách một cách hơi
quá bất ngờ và vô cùng khắc nghiệt.
Chúng tôi chỉ được chuẩn bị
vài ngày thức ăn nhưng lại phải trải qua một chương trình cải tạo kéo dài đến
vài năm, hoặc cả chục năm. Và chịu đói là bài học đầu tiên, cũng là bài học duy
nhất mà chúng tôi được dậy, và đây cũng là bài học kéo dài mãi cho đến ngày
... mãn khóa!
Ở vào hoàn cảnh này khi vớ được
mấy củ khoai đào sót, một con nhái chậm chân, một nắm rau rừng cấu vội, hay
một vốc gạo thừa – vét được sau những lần tạp dịch dọn kho – mà có sẵn cái
lon Guigoz bên mình thì tiện lắm. Nó đòi hỏi rất ít nhiên liệu khi nấu
nướng, và gọn nhẹ khi di chuyển hay hay cần cất dấu.
Hằng đêm chúng tôi đều được
nghe giảng dậy về một cuộc sống mới không giai cấp, mình vì mọi người, mọi
người vì mình, không ai bóc lột ai, mọi sản phẩm đều là của chung, làm việc
theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu ... Chúng tôi tiếp thu tốt, thảo
luận tốt, viết thu hoạch tốt, với tinh thần nhất trí rất cao về tất cả
mọi khía cạnh tươi đẹp của cuộc sống mới.
Tuy nhiên, ngay sau đó thì mọi
người đều lục đục mang cái lon Guigoz của riêng mình đi nấu nướng, rồi tìm
một góc khuất ngồi cắm cúi ăn. Hay còn gọi là “sột sệt” theo như cách nói
riêng của người tù Bùi Ngọc Tấn.
Kiểu sống này rõ ràng (ngó)
hơi kỳ và đáng phải hổ thẹn!
Điều may mắn là đói mãi rồi
cũng hoá quen thôi. Cùng lúc, thời gian đã cho chúng tôi cái khoảng cách cần
thiết tối thiểu để nhìn lại chính mình, và thay đổi dần thái độ. Những
bài học (trời biển) hằng đêm không còn được lắng nghe chăm chú nữa. Những cái
lon Guigoz cũng bị dẹp bỏ từ từ, và chỉ còn dùng để cất dấu thực phẩm đun
nước pha tra – nếu có.
Lần lượt, chúng tôi họp thành
từng nhóm nấu nướng và “sột sệt” chung. Vừa ăn, vừa nói chuyện giễu về
những nét khôi hài của chủ nghĩa xã hội và thế giới đại đồng – nơi mà nhà
cửa không cần khoá, và của rơi không có người nhặt vì toàn dân không ai có nhu
cầu cần thêm một cái cuốc hay cái ... thẻ cử tri.
Cuốc, nếu hư, chỉ việc xin
thay cái khác. Còn thẻ cử tri thì lại quá dầy, và cũng quá nhỏ, không tiện
cho việc vệ sinh thân thể! Chúng tôi đã cố gắng khôi phục lại con người bình
thường của mình, bằng những nụ cười lém lỉnh như thế, hằng đêm.
Tất nhiên, cũng có những chiến
hữu ... một đi không trở lại. Họ vẫn cứ tiếp tục sống lủi thủi và lặng lẽ
với cái lon Guigoz của (riêng) mình. Họ trở nên cô đơn và lầm lũi. Họ đâm ra
sợ hãi và nghi kỵ tất cả mọi người xung quanh. Họ không bao giờ cười nữa, dù
chỉ cười chơi giữa đám bạn bè đồng cảnh. Họ đã tận dụng Chủ Nghĩa Ăn Gô để
đối phó với Chủ Nghĩa Cộng Sản (Guigozism v.s Communism) như một cách
thế để sinh tồn.
Chúng tôi, tất nhiên, không
phải là những tù nhân đầu tiên của chế độ hiện hành. Hơn nửa thế kỷ trước,
ngay sau khi nửa nước rơi vào tay của người cộng sản, cũng đã có không ít
người phải đi ... cải tù.
Tương tự như hoàn cảnh của
chúng tôi, họ cũng bất ngờ phải đối diện với cái đói nhưng phản ứng của
những bậc tiền bối (xem ra) đáng kính trọng hơn nhiều – theo như lời kể
của người tù Kiều
Duy Vĩnh:
Chánh giám thị Nguyễn Quang
Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.Cấm triệt để làm
dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.
"Ai cho các anh ăn?"
chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn
cả."
"Cấm cầu kinh, các anh vẫn
lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh
phải cảm ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không
có chúa nào hết.
Không có con mẹ Maria, thằng Jê
su nào cả. Biết chưa?"
(Nguyên văn như vậy, tôi xin
lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).
Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng
đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Đóng cửa lại. Chúng
tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.
Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn
mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.
Tất cả, cả tôi, không ai phải
bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.
Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy
thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ
không chia thành một phần như ở xà lim.
Buổi chiều, đích thân Chánh
Giám Thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ.
Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?
Không có khí thế hừng hực đấu
tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Đảo tuyệt thực, không có hô khẩu
hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.
Không thể dùng lưỡi lê và sức
mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.
Họ không ăn, thế thôi. Không hò
reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.
Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám
thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt
đi chỗ khác.
Giám thị Sáng đành phải ra về.
.................
Sáng hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên.
Quản giáo lại đứng đấy để giám
sát. Không ai nhúc nhích gì. Không ai ăn cả, kể cả tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng
dậy cầm bát chia cơm canh của tôi ra cái thùng gỗ của nhóm năm người, tôi vẫn
ăn cùng với tu sĩ. Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi, cơm canh đầy đặn và lặng lẽ
bê đến trước mặt tôi.
“Đây phần của anh, anh ăn đi”
và về ngồi lại ở chỗ mình.
Một lần nữa tôi lại xin các vị
cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.
Tôi không theo đạo Thiên Chúa
và không làm dấu thánh bao giờ.
Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn
không ăn. Không có điều gì thúc đẩy buộc tôi bắt tôi không ăn cả.
Tôi nghĩ đúng như vậy.
Nhân cơ hội ấy. Quản Giáo bèn
lên tiếng:
“Đấy các anh thấy không? Anh
Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu thánh. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn được
một cách ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn?
Các anh là đồ ngu dốt, cuồng
trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ.
Rồi các anh sẽ biết.”
Không một tu sĩ nào trả lời đáp
lại.
Có tôi lên tiếng:
"Xin lỗi ông, chắc ông đọc
lý lịch của tôi thì ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả? Phật không, chúa cũng
không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn mà thôi.
Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy tôi ăn có
thế thôi."
Đứng cho đến lúc tôi ăn xong.
Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót khóa cửa ra về.
Đến buổi chiều không thấy mặt
ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả lính coi tù.
Tu sĩ Chính đứng dậy chia cơm
cho một mình tôi. Tôi ăn.
Các đấng bậc và kể cả T.H Liệu
cũng không ăn.
Hai ngày trôi qua.
Sáng hôm thứ ba tù khênh các
thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp và rồi lại khênh lên với cơm
canh mới hãy còn nóng.
Không có ai đi kèm.
Ban Giám thị không.
Quản giáo không.
Khênh cơm canh vào buồng. Khóa
cửa lại.
Chia đều.
Và các đấng bậc tu sĩ lại làm
dấu thánh trước khi ăn.
Chẳng ai cười cợt, nói năng,
hát hò, reo vui gì trước cuộc đấu tranh đã dành được thắng lợi lẫy lừng và vang
dội đó
...
Và cuộc sống của chúng tôi lại
lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi được về và các vị còn lại chết hết.
Viết tại Hà Nội, Ngày 1 Tháng
8, Âm lịch, năm 1994
Kiều Duy Vĩnh
Ông Kiều Duy Vĩnh qua đời vào
năm 2012. Qua năm sau, trên trang Bauxite
Việt Nam người ta đọc
được một bản tin ngăn ngắn:
“Sáng nay 21/6/2013, sau khi
gặp chồng mình tại Trại giam số 5, Thanh Hóa, bà Nguyễn Thị Dương Hà cho
biết do Trại giam số 5 Bộ Công an cuối cùng đã phải ra văn bản giải quyết đơn
của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, nên từ 9 giờ sáng hôm nay ông đã kết thúc tuyệt thực.
Từ nhà tù, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ gửi thư cảm ơn đến tất cả mọi người đã ủng hộ
cuộc đấu tranh của ông.”
Tiếp theo đó là một bản tin
khác của BBC,
nghe được vào hôm 21 tháng 7 năm 2013:
“Ông Nguyễn Văn Hải, tức
blogger Điếu Cày, hiện đã tuyệt thực sang ngày thứ 29 và ở trong tình trạng
'rất yếu'.
Con trai ông Hải, anh Nguyễn
Trí Dũng, vừa có cuộc tiếp xúc kéo dài chưa đầy 5 phút với cha mình hôm thứ
Bảy 20/7 tại trại giam số 6, xã Hạnh Lâm, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Anh cho hay ông Hải tuyệt thực
là để phản đối việc Viện Kiểm sát Nhân dân Nghệ An không giải quyết đơn
khiếu nại của ông. Lý do khiếu nại là ông Nguyễn Văn Hải bị quản lý trại
giam ép ký vào một bản nhận tội và khi ông không ký thì bị quyết định biệt
giam ba tháng."
Nguồn: Dân
Luận
Về những “tội danh” của Điếu
Cầy, ông Hà
Sĩ Phu đã bình luận như sau:
“Qua thực tiễn, nghiệm ra rằng
chỉ có mấy ‘tội’ này là nặng nhất, bị nhà nước ta ‘ghét’ nhất: thứ nhất là tội
xúc phạm đến tình hữu nghị 16+4 , hai là tội lập tổ chức ‘ngoài sự lãnh đạo’,
ba là tội bướng – nhất định giữ khí phách, lương tâm và danh dự cá nhân, không
chịu phục tùng. Ba ‘tội’ hàng đầu này Điếu Cày đều dính cả, trọng tâm là tội
thứ nhất, nói nôm là ‘tội chống Tàu xâm lược’!"
Hơn nửa thế kỷ trước những tu
sĩ công giáo đã thắng, sau một cuộc tuyệt thực để bảo vệ đức tin của họ,
trong trại Cổng Trời. Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cũng vừa thành công sau một cuộc
tuyệt thực đòi bảo vệ nhân phẩm và sức khoẻ của tù nhân, tại trại giam số 5
– Thanh Hoá.
Ở trại giam số 6, Nghệ An,
cuộc chiến đấu của Điếu Cầy – rõ ràng – gian nan và phức tạp hơn. Ông
không chỉ phải đối địch với cái nhà nước toàn trị hiện hành mà còn cả với
đất nước “hữu nghị” láng giềng nữa. Ý chí của Điếu Cầy có thể dư nhưng
thể lực của ông thì lại là chuyện khác:
“Từng phút một, hình hài đáng
quý trọng ấy có thể giã từ chúng ta, làm thế nào loại trừ để khả năng đáng ân
hận ấy không thể xảy ra, không được xảy ra?”
No comments:
Post a Comment