Wednesday, 3 July 2013

ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG CÓ HAY KHÔNG THẨM QUYỀN KÝ HIỆP ĐỊNH SONG PHƯƠNG VIỆT – THÁI ? (Trang Nhung Nguyen - Facebook)




3-7-2013

Cuối tháng 6 vừa qua, ông Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm Thái Lan theo lời mời của thủ tướng Yingluck Shinawatra. Một trong các hoạt động chính của chuyến thăm này là hội đàm với thủ tướng Yingluck Shinawatra và ký hiệp định đối tác chiến lược Việt Nam – Thái Lan.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Ông Nguyễn Phú Trọng lấy tư cách gì để ký hiệp định đối tác chiến lược giữa hai nước? Tư cách Tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam, tư cách đại biểu Quốc hội, hay tư cách khác?

Có thể có người cho rằng đây là một câu hỏi ngớ ngẩn, bởi ông Trọng đương nhiên lấy tư cách Tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam để ký hiệp định này.

Nếu vậy, có một câu hỏi tiếp theo: Tư cách này có cho ông Trọng thẩm quyền ký hiệp định giữa các nước trong đó có Việt Nam hay không?

Để trả lời câu hỏi trên, hãy thử xem xét văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Trước hết, cần xác định đây là một hiệp định song phương, một loại điều ước quốc tế, mà việc ký kết điều ước quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Ký kết, Gia nhập & Thực hiện Điều ước Quốc tế 2005 [*] hiện có hiệu lực thi hành.

Điều 2, các khoản 4, 5, 7, 8 của luật này quy định về thuật ngữ như sau:

-- 4. Ký kết là những hành vi pháp lý do người hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bao gồm đàm phán, ký, phê chuẩn, phê duyệt điều ước quốc tế hoặc trao đổi văn kiện tạo thành điều ước quốc tế.

-- 5. Ký là hành vi pháp lý do người có thẩm quyền hoặc người được ủy quyền thực hiện, bao gồm ký điều ước quốc tế không phải phê chuẩn hoặc phê duyệt và ký điều ước quốc tế phải phê chuẩn hoặc phê duyệt.

-- 7. Phê chuẩn là hành vi pháp lý do Quốc hội hoặc Chủ tịch nước thực hiện để chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đã ký đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

-- 8. Phê duyệt là hành vi pháp lý do Chính phủ thực hiện để chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đã ký đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

Có thể thấy rằng, hành vi pháp lý của việc ký kết ở đây là "ký", theo khoản 5, Điều 2 nêu trên.

Cũng luật này, Điều 11, các khoản 1, 2 quy định về thẩm quyền ký điều ước quốc tế như sau:

-- 1. Chủ tịch nước quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước với người đứng đầu Nhà nước khác.

-- 2. Chính phủ quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, nhân danh Nhà nước, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này./.

Ở đây, việc ký hiệp định không thuộc trường hợp của khoản 1 do thủ tướng Yingluck Shinawatra không phải là người đứng đầu nhà nước Thái Lan. Do đó, đây là việc ký kết thuộc trường hợp của khoản 2, mà cụ thể là giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Thái Lan (bất kể chính phủ mỗi nước nhân danh mình hay nhân danh nhà nước mình). Vì vậy, về phía Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền quyết định việc ký hiệp định này là chính phủ và người có thẩm quyền ký hiệp định là thủ tướng chính phủ. Theo quy định tại khoản 5, Điều 2 nêu trên thì thủ tướng chính phủ có thể ủy quyền cho người khác ký hiệp định này.

Như vậy, ông Trọng chỉ có thể ký hiệp định hai nước nếu, với tư cách là một đại biểu Quốc hội, được ủy quyền bởi thủ tướng chính phủ. Cho nên, tư cách Tổng bí thư chẳng có nghĩa lý gì ở đây, xét từ góc độ pháp lý.

Vậy ông Trọng có được ủy quyền bởi thủ tướng chính phủ hay không? Hay ông đương nhiên đại diện cho chính phủ mà không cần sự ủy quyền?

Nếu câu trả lời cho câu hỏi sau là khẳng định, thì Luật Ký kết, Gia nhập & Thực hiện Điều ước Quốc tế 2005 chỉ là đơn giản là một văn bản không có giá trị pháp lý trên thực tế đối với người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam.

Sài Gòn, 03/07/2013



_________________________________

Chú thích:

[*] Luật Ký kết, Gia nhập & Thực hiện Điều ước Quốc tế 2005




No comments:

Post a Comment

View My Stats