Why Myanmar’s military rulers
are giving power to the people
The Economist, 25/5/2013
14/06/2013
Quá trình chuyển tiếp của
Myanmar [Miến Điện] diễn biến từ trên xuống. Hơn bất cứ điều gì khác, chính
điều này khiến sự thay đổi này khác hẳn những biến động khác gần đây chẳng hạn
như các cuộc cách mạng “quyền lực nhân dân” của mùa xuân Ả rập, sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản ở Châu Âu và việc lật đổ Tổng thống Suharto của Indonesia.
Vào những thời khắc trọng yếu, mối đe dọa của những cuộc phản kháng quần chúng
đã đẩy nhanh quá trình này. Các cố vấn chính phủ [Myanmar] thú nhận rằng năm
2011 họ lo sợ một mùa xuân Ả rập nổ ra trên các đường phố Yangon. Quân đội đã
tàn nhẫn trấn áp các cuộc phản kháng chẳng hạn như “cuộc cách mạng màu vàng [áo
cà sa]” của giới sư sãi bị bỏ dở vào năm 2007, và cuộc khởi nghĩa vì dân chủ
vào năm 1988 mà nhờ đó bà Suu Kyi lần đầu tiên được cả nước biết tới. Những
cuộc phản kháng năm 1988 đã dẫn tới kỳ bầu cử năm 1990 với thắng lợi thuộc về
Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy – NLD), nhưng
chính phủ hủy bỏ kết quả. Tuy vậy, nhìn chung hiện nay Myanmar là một ví dụ
hiếm hoi về một chế độ chuyên quyền đang tự thay đổi từ bên trong.
Đầu những năm 2000 có thể thấy
rõ là một vài thập niên thực hiện “Con đường Miến Điện tiến tới Chủ nghĩa Xã
hội” của [thủ tướng] Ne Win, cộng thêm vài thập niên theo chủ nghĩa tư bản bè
phái của [tướng] Than Shwe đã đưa đất nước từng thịnh vượng vào cảnh bần hàn.
Năm 2003, chính phủ phác thảo “lộ trình bảy bước tiến tới dân chủ”. Một hội
nghị toàn quốc được tổ chức để dự thảo một hiến pháp mới, được thông qua đúng
bài bản trong một cuộc trưng cầu ý dân năm 2008. Kỳ bầu cử theo quy định của
hiến pháp mới diễn ra năm 2010 và nhìn chung đã bị dàn xếp. Tổng thống mới,
Thein Sein, nhậm chức vào tháng 3/2011. Thein Sein được chính người tiền nhiệm
Than Shwe (có lẽ là người tàn nhẫn nhất trong các nhà độc tài quân sự của
Myanmar) lựa chọn. Léon de Riedmatten, một công dân Thụy Sĩ từng làm việc cho
nhiều tổ chức quốc tế ở Myanmar trong suốt những năm 2000, nói “chẳng có gì
đáng ngạc nhiên cho lắm, tất thảy đều theo đúng kế hoạch. Rõ ràng Than Shwe là
kiến trúc sư của nền dân chủ hiện tại”.
Tuy nhiên, kiểu dân chủ mà Than
Shwe và các phó tướng của mình hình dung lại khá khác biệt với cách phương Tây
hiểu thuật ngữ này. Giới cai trị quân sự gọi phiên bản của họ là “nền dân chủ
có kỷ cương” – một phiên bản trong đó quân đội vẫn nắm giữ nhiều quyền lực bất
luận kết quả ra sao trong các kỳ bầu cử. Ý đồ của họ là cho phép người dân có
tiếng nói chỉ vừa đủ để tranh thủ sự ủng hộ của những người chống đối quân đội
trong nước và ở nước ngoài để tái thiết nền kinh tế điêu tàn của đất nước.
Thein Sein thực ra có công lớn
khi nhận ra rằng quyền tự do bị hạn chế nghiêm ngặt sẽ không thuyết phục được
Mỹ và Châu Âu bỏ cấm vận, mà cũng không giành được sự ủng hộ của bà Suu Kyi; vì
vậy, khi lên nắm quyền ông đã đẩy mạnh các cải cách dân chủ nhiều hơn Than Shwe
từng dự tính. Nhu cầu đã quá cấp bách. Ngay từ thời 1962, Myanmar, với nguồn
tài nguyên dồi dào khoáng sản, gỗ giá tỵ, dầu khí, và lúa gạo, đã là một trong
những nước giàu nhất trong khu vực, với lợi tức bình quân đầu người khoảng 670
Mỹ kim, gấp hơn ba lần so với Indonesia và gấp đôi Thailand. Tới năm 2010, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính Myanmar có GDP bình quân đầu người thấp nhất
Đông Nam Á (xem biểu đồ).
Đất nước này đã tụt hậu khá xa
ngay trong giai đoạn những nước khác ở Châu Á có mức tăng trưởng kỷ lục. Sự
tương phản giữa Myanmar và các nước láng giềng đã trở nên quá rõ rệt đến nỗi không
thể không nhận thấy ở cả trong lẫn ngoài nước. Thein Sein rốt cuộc công khai
công nhận rằng “vẫn còn có quá nhiều người vật vã với kiếp sống đói nghèo, làm
không đủ ăn”.
Nhưng để tái thiết nền kinh tế,
đất nước này cần phương Tây chấm dứt cấm vận. Myanmar đã trở nên phụ thuộc đến
mức quá nguy hiểm vào Trung Quốc khát tài nguyên; khi phương Tây xa lánh
Myanmar, Trung Quốc nhảy vào cuộc, thừa nước đục thả câu. Các công ty Trung
Quốc xây đập nước, đường sá và đường ống dẫn dầu ở Myanmar, thường với mục đích
duy nhất là vì lợi ích của giới tiêu thụ tại Trung Quốc.
Sau khi được tự do hành động
trong thời gian dài, Trung Quốc bị sốc hồi tháng 9/2011 khi Thein Sein đột ngột
đình chỉ đập Myitsone trị giá 3,6 tỉ Mỹ kim ở bang Kachin, công trình xây dựng
lớn nhất nước. Dường như ít ai ngờ vị tổng thống 68 tuổi, với vóc dáng hơi lom
khom và hoàn toàn không có vẻ là một lãnh tụ có sức lôi cuốn mạnh, là một nhà
tư tưởng độc lập, nhưng quyết định của ông về đập Myitsone khiến ông nổi bật
hẳn so với vị tiền nhiệm Than Shwe (hiện nay ẩn mình, ít xuất hiện trước công
chúng). Thein Sein muốn chấm dứt việc đất nước quá phụ thuộc vào Trung Quốc, và
ông đã bắt đầu lắng nghe sắc dân Kachin, những người kịch liệt phản đối đập
nước này.
Zhu Feng, giáo sư quốc tế học
tại Đại học Bắc Kinh, nhận xét rằng sự đổi ý về đập Myitsone “đã rung hồi
chuông báo động” trong chính phủ Trung Quốc. Myanmar trở nên khó bảo, và chính
Mỹ ở thế hưởng lợi nhiều nhất từ nỗi bất tiện của Trung Quốc khi chính phủ
tương đối mới khi đó của Mỹ có vẻ như sẵn sàng hơn trong việc tái bang giao với
nhà nước [Myanmar] bất hảo.
Chúng tôi nới lỏng, các anh nới lỏng
Những chính quyền trước đây của
Mỹ từng gọi Myanmar là mối nguy cho hòa bình thế giới. Nhưng khi Barack Obama
trở thành tổng thống, ông hứa sẽ “nới lỏng” nắm đấm của Mỹ nếu những chế độ
cứng đầu nhất của thế giới cũng chịu “nới lỏng” – một chiến lược chẳng có tác
dụng với Iran và Bắc Hàn, nhưng đã vô cùng công hiệu với Myanmar. Ngay sau khi
nhậm chức vào đầu năm 2009, chính quyền Obama đã ra lệnh xem xét lại chính sách
của Mỹ đối với Myanmar. Mỹ thử đi vài nước cờ bang giao cẩn trọng, giữ các lệnh
cấm vận nhưng mở hướng đối thoại. Ban đầu, cách này dường như chẳng ích gì.
Nhưng từ khi Thein Sein lên cầm quyền, Derek Mitchell, hiện là đại sứ Mỹ tại
Myanmar, nhận xét “chúng tôi thấy ông này khác hẳn”, và ông là người mà Mỹ có
thể đối thoại.
Kể từ, nhiều đời đại sứ Mỹ nối
tiếp nhau đã hứa nới lỏng cấm vận và giảm mức độ cô lập của Myanmar với điều
kiện phải cải tổ chính trị, nhất là thả các tù nhân chính trị. Thein Sein thực
hiện tất cả những gì ông được yêu cầu. Hồi tháng 11 năm ngoái, ông nhận được
tín hiệu tán thành cao nhất cho những nỗ lực cải tổ của đất nước ông khi tổng
thống Obama thăm Yangon.
Có người cho rằng phương Tây
quá nóng vội khi tái bang giao với nhà nước trước đây bị xem là bất trị. Có lẽ
vậy, nhưng điều đó cũng tạo ưu thế đáng kể cho bà Suu Kyi, lãnh tụ đối lập, vì
người Mỹ chẳng bao giờ đi một bước trước khi được bà chấp thuận. Tháng 8/2011,
Thein Sein mời bà tới dinh tổng thống ở thủ đô, Naypyidaw, vì biết rằng ông cần
được bà chấp thuận nếu muốn người Mỹ ủng hộ các cải tổ. Tình hình đã diễn ra
như vậy.
Vào lúc Mỹ nói chung đang
chuyển hướng sang Châu Á, việc tái bang giao với Myanmar là khía cạnh bên ngoài
đáng chú ý nhất của quá trình chuyển tiếp của đất nước này. Giới diều hâu ở Bắc
Kinh xem đây là bằng chứng nữa cho thấy Mỹ có những nỗ lực hiếu chiến ngăn chặn
sự vươn lên của Trung Quốc. Kéo Myanmar dù chỉ một phần về với phương Tây chắc
chắn là một nước cờ ngoạn mục của tổng thống Obama, nhưng điều đó không tự động
dẫn tới một “cuộc cờ đại chiến” mới ở Myanmar giữa hai cường quốc kình địch.
Đại sứ Mitchell nhận định rằng “có một cuộc cạnh tranh [ở Châu Á] về giá trị và
quy tắc, nhưng không nhất thiết là chống Trung Quốc”.
Liệu những người lính già có thể rút lui dần dần?
Những lý giải kinh tế, đối nội
và chiến lược về quá trình chuyển tiếp của Myanmar đều cho thấy đất nước này có
thể thành một quốc gia dân chủ bình thường, nhưng sẽ còn phụ thuộc nhiều vào
quân đội. Trong mấy chục năm qua, cái thể chế với 350.000 quân này đã thống
lĩnh mọi mặt của đời sống ở Myanmar. Nếu muốn có thay đổi thực sự, quân đội
không chỉ cần phải ngừng đánh nhau với dân Kachin và các sắc dân khác, mà còn
phải tháo bỏ gọng kìm kiểm soát quốc hội và nền kinh tế.
Đây chính là chỗ bộc lộ rõ
những hạn chế của tiến trình [thay đổi] từ trên xuống. Hiến pháp năm 2008 do
quân đội soạn thảo và trao cho quân đội nắm toàn bộ quyền lực hoàn toàn phi dân
chủ để bảo đảm quân đội giữ quyền kiểm soát quá trình chuyển tiếp. Trắng trợn
nhất là quân đội tự trao cho mình một phần tư số ghế không cần qua bầu cử trong
tổng số ghế ở các quốc hội mới cấp quốc gia và cấp tiểu bang để hiến pháp không
thể thay đổi nếu không được quân đội chấp thuận. Quân đội cũng có quyền tối cao
đối với các vấn đề của quân đội cũng như có tiếng nói lớn trong một số bộ dân
sự. Toàn bộ các bộ trưởng hiện nay, kể cả Thein Sein, đều là cựu sĩ quan quân
đội.
Trong hình hài hiện đại, quân
đội được thành lập bởi Aung San, cha của bà Suu Kyi và là người dẫn dắt Myanmar
đến nền độc lập thoát khỏi ách cai trị của Anh Quốc. Quân đội tự xem mình là
thể chế duy nhất có thể gắn kết đất nước Myanmar dễ tan vỡ trong một “liên
bang”, đúng như tên gọi chính thức của quốc gia này. Điều này cho thấy quân đội
sẽ chặn đứng bất cứ nước đi nào hướng tới một tổ chức mang tính liên bang hơn
và hướng tới dân chủ cao hơn; cả hai điều đó sẽ bao gồm trao quyền lực cho
người Karen, Kachin, và các sắc dân khác, và, theo quan điểm của quân đội, giải
thể “liên bang”. Những thay đổi như vậy cũng sẽ giảm tầm quan trọng của quân
đội, và vì thế giảm cả ngân sách của quân đội.
Nhiều người cũng nghĩ rằng quân
đội và đảng đại diện cho họ trong quốc hội, Đảng Đoàn kết và Phát triển Liên
bang (USDP), có đặc quyền đặc lợi trong việc chống lại việc tự do hóa kinh tế
mạnh hơn nữa vì điều đó sẽ gây phương hại tới những độc quyền kinh doanh của
các cựu sĩ quan quân đội. Đặc biệt, hai tập đoàn đầu tư vốn khổng lồ của quân
đội, Tổng Công ty Kinh tế Liên bang Myanmar (UMEHL) và Tập đoàn Kinh tế Myanmar
(MEC), có chân rết ở khắp mọi nơi, từ khách sạn tới hãng hàng không, từ trại
nuôi gà tới mỏ ngọc bích.
Từng đường đi nước bước người
ta đã phải chuẩn bị đối phó với phản ứng tiêu cực của các quân nhân theo đường
lối cứng rắn có nhiều lợi ích về thể chế và kinh tế nhất nếu giữ nguyên hiện
trạng, nhưng điều đó đã không xảy ra, hay chí ít là chưa xảy ra. Vả lại, khi
các cuộc cải tổ được tranh luận ở quốc hội và trong ngành hành pháp, phe bảo
thủ cứng rắn thường thua về lý luận và mất phiếu. Richard Horsey, một chuyên gia
tư vấn dày dạn kinh nghiệm ở Myanmar, nhận xét cho tới nay quân đội đã chấp
nhận những thay đổi như các giới khác. Quân đội đã không chống lại yêu sách đòi
UMEHL và MEC đóng thuế, và hai tập đoàn đầu tư này đã mất độc quyền đối với các
hàng nhập cảng béo bở như xe, dầu ăn, thuốc lá và bia. Ông Horsey nói: “Đó là
những thay đổi rất lớn”.
Thậm chí có thể có những thay
đổi lớn hơn sau đợt xem xét lại hiến pháp; điều này được xem là không tưởng chỉ
mới cách đây một năm, nhưng hiện nay được chính đảng USDP đề xuất. Điều đó có
thể lay chuyển chính những nền tảng của quyền lực chính trị của quân đội – và
thậm chí có thể giúp bà Aung San Suu Kyi trở thành tổng thống.
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Nguồn: Democracy on prescription – Why Myanmar’s
military rulers are giving power to the people, The Economist, 25/5/2013
(Bản dịch tiếng Việt đã đăng
trên Thời Mới Canada, ngày 5/6/2013.)
No comments:
Post a Comment