Điều Trần của Joseph Yun
Bản
dịch của Lê Anh Hùng (Defend the Defenders)
Posted
on June 7, 2013 by DtD
Điều
trần
Joseph
Yun
Quyền Trợ lý Ngoại trưởng, Vụ Đông Á – Thái Bình Dương
Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện, Tiểu ban Châu Á – Thái Bình Dương
Quyền Trợ lý Ngoại trưởng, Vụ Đông Á – Thái Bình Dương
Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện, Tiểu ban Châu Á – Thái Bình Dương
Washington,
DC | 5.6.
2013 | Thưa ngài Chủ tịch Faleomaveaga và các thành viên Tiểu ban, rất cám
ơn quý vị hôm nay đã mời tôi đến đây để điều trần về mối quan hệ của Hoa Kỳ với
Việt Nam. Đây còn là niềm vinh hạnh của tôi khi được điều trần với người đồng
nghiệp, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Dan Baer đến từ Vụ Dân chủ, Lao động và Nhân
quyền. Phó Trợ lý Ngoại trưởng Dan Baer sẽ thảo luận chi tiết về tình hình nhân
quyền ở Việt Nam. Trong phần điều trần của mình, tôi sẽ phác hoạ một bức tranh
tổng quan về mối quan hệ kinh tế, an ninh, quân sự – quân sự và nhân dân – nhân
dân với Việt Nam. Mối quan hệ song phương với Việt Nam đang phát triển thành
một mối quan hệ đối tác quan trọng và ngày càng rõ nét. Hiện nay, chúng ta đang
phát triển trên nền tảng lợi ích chung của mình trong một Châu Á – Thái Bình
Dương ổn định, an ninh và thịnh vượng. Nỗ lực của chúng ta ở Việt Nam tập trung
vào việc thúc đẩy một nền kinh tế theo định hướng thị trường, một nền kinh tế
mở cửa với hàng hoá và đầu tư từ Mỹ; thúc đẩy hoà bình và an ninh khu vực; nâng
cao thái độ tôn trọng dành cho nhân quyền, tự do tôn giáo, quản trị nhà nước
hiệu quả (good governance) và pháp trị (rule of law); và thúc đẩy phúc lợi và
sức khoẻ cho con người.
Tôi
muốn nhấn mạnh rằng mối quan ngại của chúng tôi về nhân quyền là một nhân tố
xuyên suốt mọi khía cạnh liên quan đến cách tiếp cận chính sách và sự can dự
của chúng ta với Việt Nam. Chúng tôi tin rằng việc Chính phủ Việt Nam dành thái
độ tôn trọng tốt hơn cho nhân quyền sẽ giúp đảm bảo cho sự phát triển kinh tế,
xã hội và chính trị của đất nước này trong tương lai và cho phép tăng cường mối
quan hệ song phương với chúng ta. Chúng tôi đã nhấn mạnh với các nhà lãnh đạo
Việt Nam rằng nhân dân Mỹ sẽ không ủng hộ việc tăng cường mạnh mẽ quan hệ song
phương nếu không có tiến bộ rõ rệt về nhân quyền.
Thật
hữu ích khi đánh giá xem chúng ta đã đi tới đâu trong mối quan hệ song phương
của mình kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1995. Mười
tám năm trước, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là
450 triệu USD, gần như chỉ bằng sai số làm tròn trong giá trị giao dịch thương
mại toàn cầu của chúng ta. Với việc hoàn tất hiệp định thương mại song phương
năm 2001, quan hệ kinh tế đã cất cánh. Hiện nay, kim ngạch thương mại hai chiều
của chúng ta với Việt Nam đạt tới gần 25 tỷ USD mỗi năm, và Việt Nam đã thu hút
trên 10 tỷ USD đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ – một lợi ích đáng kể cho cả hai quốc
gia. Quyết định của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong thập niên 1980 khi vứt bỏ
chế độ kế hoạch hoá nhà nước theo kiểu Soviet và đưa Việt Nam hội nhập vào hệ
thống thương mại toàn cầu đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thành quả trong tăng
trưởng kinh tế và phát triển. Đúng là Việt Nam vẫn tiếp tục phải vật lộn với
những vấn đề về tham nhũng, về các DNNN thiếu hiệu quả, và về sự phân phối của
cải bất bình đẳng, song điều quan trọng là phải thừa nhận những thành tựu của
Việt Nam về xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là trong hai thập niên vừa qua. Tôi
tin rằng sự can dự về mặt kinh tế của Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng trong
quá trình chuyển tiếp đang diễn ra ở đây.
Việc
nêu bật vai trò thiết yếu mà những người Mỹ gốc Việt vẫn đang đóng góp cho sự
phát triển của Việt Nam là điều rất quan trọng. Chúng tôi coi cộng đồng người
Mỹ gốc Việt là một đối tác chủ chốt trong việc tăng cường mối quan hệ song
phương, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh giá cao cuộc đối thoại thường xuyên của
chúng tôi với nhóm người ủng hộ then chốt này. Như là một phần trong nỗ lực
liên tục này, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear đang thực hiện chuyến
viếng thăm California tuần này và sẽ tổ chức một số sự kiện tại toà thị chính ở
cả Quận Cam (Orange County) lẫn thành phố San Jose để lắng nghe những quan ngại
của người Mỹ gốc Việt và thảo luận chính sách của chúng ta đối với Việt Nam.
Các
doanh nghiệp thuộc sở hữu của người Mỹ gốc Việt đã đầu tư hàng trăm triệu USD
vào Việt Nam, và ngày càng có nhiều người Mỹ gốc Việt sang làm việc tại Việt
Nam, nhiều trong số đó là giám đốc điều hành trong các công ty đa quốc gia hoạt
động ở Việt Nam. Lượng kiều hối khoảng 7 tỷ USD từ Mỹ gửi về Việt Nam hàng năm
cung cấp nguồn vốn cho những hoạt động kinh doanh mới và thúc đẩy tiêu dùng.
Tầm ảnh hưởng của người Mỹ gốc Việt vượt ra ngoài kinh doanh và bao gồm các mối
liên kết quan trọng về văn hoá, giáo dục và gia đình. Sự liên hệ đó là vô cùng
hữu ích, và chúng tôi muốn khuyến khích nhiều hơn thế, đặc biệt là trong số các
thế hệ trẻ hơn. Chắc chắn là ở đây vẫn tồn tại những bất đồng và những mối nghi
ngại đeo đẳng, vốn là di sản của cuộc chiến tranh Việt Nam. Những Việt kiều
muốn quê hương mình trở nên cởi mở, dân chủ và thịnh vượng hơn thường xuyên bị
soi xét với con mắt nghi ngại từ phía lực lượng an ninh Việt Nam. Chúng tôi đã
hối thúc Chính phủ Việt Nam mở rộng vòng tay hơn nữa với những người Mỹ gốc
Việt và giải quyết những quan ngại về nhân quyền của cộng đồng này, một mối bận
tâm mà Chính phủ Mỹ chia sẻ.
Trọng
tâm trong nghị trình kinh tế của chúng ta với Việt Nam là Hiệp định Đối tác
Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại tự do khu vực trong thế
kỷ 21 giúp hội nhập nền kinh tế Việt Nam với các quốc gia ở cả hai phía của khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương. Để thu được lợi ích kinh tế từ việc tham gia hiệp
ước thương mại và đầu tư thượng thặng trong khu vực này, Việt Nam cần phải mở
cửa các thị trường hàng hoá, dịch vụ và đáp ứng những tiêu chuẩn cao trong một
loạt lĩnh vực, bao gồm việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sự minh bạch và công
khai trong thông lệ mua sắm của chính phủ, việc thắt chặt ưu đãi dành cho các
DNNN, sự tự do hoá thông tin nhằm thúc đẩy nền kinh tế số (digital economy),
các biện pháp bảo hộ lao động hữu hiệu dành cho công nhân, v.v và v.v. Hoàn
tất bản hiệp định sẽ là một thách thức, song phần thưởng từ đó lại đáng kể –
phân tích sơ bộ cho thấy Việt Nam sẽ là một trong những đối tượng thụ hưởng
nhiều nhất từ TPP. Sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía Mỹ vẫn tiếp tục nhằm trợ giúp
Chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết một loạt vấn đề thương mại và đầu tư
mới nằm trong nghị trình đàm phán của TPP và nhằm giữ đà cho những cải cách thị
trường, hiện đại hoá và hội nhập của Việt Nam. Ngoài việc tham gia TPP, Việt
Nam còn có nhiều tham vọng phát triển một nền kinh tế kỹ thuật cao và dựa vào
tri thức, song những dự thảo quy định nhằm kiểm soát internet và quản lý nội
dung phát sóng của các đài truyền hình nước ngoài lại đi ngược lại mục tiêu đó.
Chúng tôi thường kéo các quan chức Việt Nam vào cuộc để nhấn mạnh rằng, xây
dựng một nền kinh tế năng động, sáng tạo đòi hỏi phải cho phép mọi người tự do
suy nghĩ, sáng tạo và tận dụng hết lợi thế của môi trường thương mại và đầu tư
mà TPP sẽ tạo ra.
Công
cuộc hợp tác của chúng ta về những chủ đề khu vực đã tiến khá xa. Kể từ khi đảm
nhiệm rất thành công vai trò chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã củng cố vị
thế của mình như một nhà lãnh đạo khu vực. Chúng tôi đã làm việc cùng nhau
trong ASEAN và các diễn đàn đa phương khác nhằm khuyến khích việc thảo luận về
an ninh hàng hải, hỗ trợ nhân đạo, và các chủ đề cứu trợ thảm hoạ mà khu vực
phải đối mặt. Hoa Kỳ cũng ủng hộ những nỗ lực của Việt Nam và các thành viên
ASEAN khác trong việc đàm phán với Trung Quốc về một Bộ Quy tắc Ứng xử (COC)
trên Biển Đông cũng như trong việc giải quyết tranh chấp thông qua các biện
pháp ngoại giao hay các biện pháp ôn hoà khác, phù hợp với luật pháp quốc tế,
bao gồm cả Công ước LHQ về Luật Biển. Chúng tôi nhận ra rằng sự thịnh vượng của
khu vực dựa trên sự ổn định liên tục, đặc biệt là trên Biển Đông, và chúng tôi
ủng hộ những nỗ lực của khu vực trong việc xử lý những tranh chấp này mà không
phải viện đến vũ lực hay đe doạ. Ngoài ra, chúng tôi còn làm việc với nhau nhằm
thúc đẩy sự phát triển trong tiểu vùng sông Mê Kông thông qua Sáng kiến Hạ vùng
Mê Kông (LMI).
Trên
phương diện ngoại giao của mối quan hệ, Hoa Kỳ và Việt Nam đang hợp tác chặt
chẽ hơn về các chủ đề an ninh khu vực và toàn cầu. Việt Nam và Hoa Kỳ cùng chia
sẻ lợi ích chung trong việc duy trì hoà bình và an ninh ở Đông Nam Á và, rộng
hơn, ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Chúng tôi đánh giá cao cam kết của
Việt Nam trong việc không phổ biến vũ khí hạt nhân, kể cả việc họ phê chuẩn
Nghị định thư Bổ sung của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (International
Atomic Energy Agency’s Additional Protocol) năm ngoái và hoàn thành việc dỡ bỏ
uranium với độ giàu cao ra khỏi lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Việt Nam nằm dọc
theo các tuyến hàng hải huyết mạch, và Hoa Kỳ đang làm việc với Việt Nam nhằm
nâng cao nhận thức của Việt Nam về lĩnh vực hàng hải và tăng cường lực lượng
cảnh sát biển để Hà Nội có thể trở thành một đối tác còn mạnh mẽ và hiệu quả
hơn trong công cuộc chống buôn lậu ma tuý, cướp biển, cũng như hoạt động vận
chuyển ngầm liên quan đến vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Chúng tôi đang nâng cao
các hoạt động trao đổi quân sự và tiến hành các cuộc huấn luyện chung trong
hoạt động tìm kiếm, cứu hộ và cứu trợ thảm hoạ. Hoa Kỳ hoan nghênh các kế hoạch
triển khai quân đội ở nước ngoài lần đầu tiên của Việt Nam nhằm ủng hộ sứ mạng
gìn giữ hoà bình của LHQ trước năm 2015. Để hỗ trợ cho nỗ lực này, Hoa Kỳ đang
cung cấp các chương trình giáo dục quân sự chuyên nghiệp với nội dung đa dạng
cho quân đội Việt Nam nhằm giúp họ chuẩn bị cho các sứ mạng này.
Mặc
dù chúng ta dự định theo đuổi mối quan hệ an ninh gần gũi hơn với Việt Nam, ở
đây vẫn tồn tại những giới hạn về mối quan hệ quân sự – quân sự liên quan đến
nhân quyền. Năm 2007, chính phủ Mỹ đã điều chỉnh lệnh cấm bán hàng hoá quốc
phòng cho Việt Nam nhằm cho phép việc bán thiết bị quân sự phi sát thương trên
cơ sở từng thương vụ. Chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ nỗ lực của Việt Nam trong
việc hiện đại hoá quân đội trong phạm vi phi sát thương nhằm hỗ trợ những ưu
tiên về an ninh mà tôi đã phác hoạ ở trên. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã nêu rõ
với các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự của Việt Nam rằng để Hoa Kỳ cân nhắc
việc dỡ bỏ những hạn chế còn lại đối với các thiết bị quốc phòng xuất khẩu, kể
cả các vũ khí sát thương, Việt Nam cần phải có sự cải thiện liên tục, rõ rệt và
bền vững về tình hình nhân quyền.
Chúng
ta có một lịch sử khó khăn, song cả hai bên đều đi đến giải quyết những vấn đề
di sản chiến tranh theo một cách thức mà qua đó đã giúp xây dựng lòng tin và
thiện chí đáng kể. Hơn hai chục năm nay, Việt Nam đã hỗ trợ hoạt động tìm kiếm
hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh. Cuộc hợp tác này bắt đầu từ
thập niên 1980 và theo nhiều cách khác nhau đã sưởi ấm mối quan hệ băng giá và
xây dựng lòng tin, dẫn đến việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1995.
Tháng Tư năm nay, 693 bộ hài cốt đã được phát hiện tại các khu vực bên trong
lãnh thổ Việt Nam và chuyển về cho các gia đình để an táng ở Mỹ. Việt Nam cũng
từng bước dỡ bỏ những hạn chế đối với những khu vực nhậy cảm từng bị cấm chỉ
đối với các đội tìm kiếm của chúng ta.
Chúng
tôi cam kết giúp Việt Nam giải quyết vấn đề bom đạn chưa phát nổ (UXO). Từ năm
1998, Bộ Ngoại giao, với sự hỗ trợ của Quốc hội, đã cung cấp trên 35 triệu USD
nhằm hỗ trợ hoạt động rà phá bom mìn cùng các chương trình giáo dục cộng đồng
nhằm mục đích giảm bớt thương vong. Mục tiêu chung của chúng tôi là giảm con số
thương vong liên quan đến UXO ở Việt Nam. Chúng tôi cũng tài trợ cho các chương
trình giúp đỡ nạn nhân của vật liệu nổ trong chiến tranh với hoạt động đào tạo
nghề, cung cấp các bộ phận cơ thể nhân tạo được sản xuất chuyên nghiệp, và các
hoạt động hỗ trợ khác.
Trong
số những vấn đề gắn với cuộc chiến, giải quyết tình trạng ô nhiễm dioxin là
thách thức lớn nhất. Tháng Tám vừa qua, USAID đã bắt đầu thực hiện dự án xử lý
điểm nóng dioxin tại căn cứ không quân cũ của Mỹ ở Đà Nẵng. Dự án này là một
trong những nỗ lực xử lý phức tạp và tốn kém nhất mà chính phủ Mỹ từng thực
hiện ở nước ngoài. Việc hoàn thành dự án ở Đà Nẵng đòi hỏi sự hỗ trợ liên tục
của Quốc hội và sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác Việt Nam của chúng tôi. Hoa
Kỳ hy vọng rằng trong tương lai gần, chúng ta có thể làm việc với Việt Nam để
giải quyết xong các vấn đề liên quan đến chất độc màu da cam.
Mối
quan hệ hướng tới tương lai của chúng ta với Việt Nam thể hiện rõ nét nhất qua
hiện tượng bùng nổ các mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chúng tôi tin tưởng
rằng, việc xây dựng các mối quan hệ này thông qua các cơ hội trao đổi, qua sự
trau dồi văn hoá, và qua các mối quan hệ giáo dục là chìa khoá để thiết lập một
mối quan hệ đối tác rộng lớn hơn với nhân dân Việt Nam, một đất nước có 60% dân
số ra đời sau năm 1975. Năm nay Việt Nam có hơn 15.000 sinh viên đang nghiên
cứu tại Mỹ, và là quốc gia gửi sinh viên sang Mỹ học tập nhiều thứ 8. Đây là
một sự thay đổi ngoạn mục kể từ năm 1995, khi chỉ có 800 sinh viên Việt Nam
nghiên cứu tại Mỹ. Chúng tôi cũng làm việc chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam và
các đối tác khác về cải cách giáo dục trong nước nhằm tăng cường độ thuần thục
tiếng Anh cũng như những kỹ năng khác, những thứ giúp tạo ra nguồn vốn con
người cần thiết để Việt Nam tham gia hiệu quả hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Cuối cùng, chương trình Fullbright đã tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 20 vào năm
2012 và ghi nhận Bộ trường Ngoại giao Phạm Bình Minh, Phó TT Nguyễn Thiện Nhân
và Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường như là những cựu sinh viên của
mình. Fulbright và các chương trình trao đổi khác giúp xây dựng sự tin cậy và
sự hiểu biết lẫn nhau, đóng góp vào hàng loạt mục tiêu chiến lược của chúng ta
bằng cách thúc đẩy mối quan hệ của chúng ta với các nhà lãnh đạo hiện tại và
tương lai của Việt Nam trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng
tôi có một nghị trình đầy tham vọng với Việt Nam, một nghị trình bao gồm việc
thúc đẩy tự do thương mại và cải cách kinh tế, tăng cường hợp tác nhằm duy trì
hoà bình và an ninh ở Đông Nam Á, tiếp tục giải quyết những vấn đề di sản chiến
tranh, và tăng cường các mối quan hệ giáo dục và văn hoá. Trong bản điều trần
này, tôi đã cố gắng nêu rõ rằng nhân quyền không phải là một vấn đề tách biệt
duy nhất; đúng hơn, đây là một chủ đề liên quan đến toàn bộ phương pháp chính
sách và sự can dự của chúng ta với Việt Nam. Nói một cách đơn giản, mối quan hệ
của chúng ta sẽ không đạt đến tiềm năng đầy đủ cho đến khi Việt Nam làm nhiều
hơn để bảo vệ các quyền con người cho công dân của mình và tuân thủ các cam kết
của họ theo Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.
Phó
Trợ lý Ngoại trưởng Dan Baer sẽ cung cấp thêm chi tiết về chính sách ngoại giao
nhân quyền của chúng ta với Việt Nam, song tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng tôi
đang làm việc hết mình với các quan chức Việt Nam hòng đảo ngược một xu hướng
trong vài năm qua, đó là tình trạng gia tăng các vụ bắt bớ cùng với những bản
án khắc nghiệt chưa từng thấy, đặc biệt là dành cho các blogger. Cho đến thời
điểm này của năm 2013, Việt Nam đã thực hiện một số bước đi tích cực về nhân
quyền, trong đó có việc phóng thích luật sư Lê Công Định (dù kèm theo một số
hạn chế) và tiếp đón cuộc viếng thăm của Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI) vào tháng
Hai. Chúng tôi hy vọng sẽ được chứng kiến thêm nhiều vụ phóng thích và nhiều
cuộc đối thoại với các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền trong năm nay. Về tự
do tôn giáo, chúng tôi cảm thấy được khích lệ khi thấy TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú
Trọng gặp gỡ Giáo hoàng Benedict trong chuyến thăm Vatican vào tháng Giêng của
ông. Chúng tôi cũng hy vọng rằng Việt Nam có thể đẩy nhanh việc đăng ký các
nhóm tôn giáo, đặc biệt là ở Tây Nguyên và vùng cao Tây Bắc.
Năm
nay, chúng ta đã được chứng kiến một cuộc tranh luận rất sôi nổi giữa các cá
nhân thuộc mọi thành phần xã hội của Việt Nam khi Việt Nam tiến hành sửa đổi
hiến pháp. Hoa Kỳ tôn trọng độc lập và chủ quyền của Việt Nam, và chúng tôi tin
tưởng rằng tất cả mọi người dân Việt Nam cần có tiếng nói trong việc quyết định
tương lai của Việt Nam. Chúng tôi hối thúc các nhà lãnh đạo Việt Nam tạo ra một
môi trường mà ở đó người Việt Nam thuộc mọi thành phần khác nhau có thể bày tỏ
quan điểm chính trị của mình một cách ôn hoà và tự do, đồng thời được lắng
nghe. Cuộc tranh luận mở và sự bày tỏ quan điểm công khai như vậy là điều kiện
thiết yếu để Việt Nam hướng tới tương lai ổn định và thịnh vượng mà nó rất xứng
đáng được hưởng.
Xin
cám ơn ngài Chủ tịch. Tôi hoan nghênh bất kỳ câu hỏi nào của quý vị.
Nguồn: US Department of
State
No comments:
Post a Comment