Nguyễn Anh Tuấn- người giáo dân Hải ngoại
Đăng bởi lúc 4:45 Sáng 13/06/13
VRNs (13.06.2013) – Hawaii, USA – Đa số người dân trong nước tỏ ra thật vọng về cách
làm việc của đảng CSVN liên quan đến sửa đổi Hiến pháp 1992. Nhưng dù có thất
vọng hay không, thì việc nỗ lực để Việt Nam, bây giờ và tương lai, có một bản
Hiến Pháp thật sự làm nền tảng cho đất nước phát triển vững mạnh lâu dài trong
đạo đức và thịnh vượng vẫn được rất nhiều công dân Việt Nam quốc nội và hải
ngoại quan tâm.
VRNs mới nhận được bài viết khá dài của ông
Nguyễn Anh Tuấn, một chuyên gia về khoa học chính sách đang sống tại Hawaii,
Hoa Kỳ. Ông Tuấn cũng là một giáo dân Công giáo. Bài viết của ông Tuấn bàn về
những gì xảy ra ở Việt Nam sau Bản nhận định và góp ý của HĐGMVN về sửa đổi
Hiến Pháp, đồng thời ông cố gắng trình bày sự khác nhau của việc hình thành một
Hiến Pháp do toàn dân viết ra và một bản Hiến Pháp do nhóm cầm quyền độc tài
viết ra.
VRNs xin trân trọng giới thiệu bài viết công phu này.
———–
SAU BÀI NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý CỦA HĐGMVN CẦN LÀM SÁNG TỎ
HIẾN PHÁP DO KẺ THỐNG TRỊ VIẾT RA VÀ HIẾN PHÁP DO TOÀN DÂN VIẾT RA KHÁC NHAU
NHƯ THẾ NÀO?
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những ngày gần đây trong cơn sốt nóng bỏng về việc
GÓP Ý CHO DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 do đảng CSVN đưa ra kêu gọi mọi thành
phần xã hội VN trong và ngoài nước góp ý kiến. Trong khi mọi dự tính và mọi
quyết định hình như đã sẵn có trong thâm tâm của đảng CSVN. Có hàng loạt ý kiến
đưa ra, nỗi bật nhất là ý kiến đóng góp của 72 người trí thức và nhân sĩ thuộc
hàng ngũ CSVN. Đáng chú ý nhất là bài NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý của HĐGMVN cũng như
Phật Giáo, Cao Đài và Hòa Hảo đều cũng nhiệt tình đóng góp nhiều ý kiến rất có
giá trị.
Đây là biến cố chính trị lớn lao đánh dấu một sự trưởng
thành đặc biệt về ý thức chính trị cũng như trách nhiệm và bổn phận của mọi
tầng lớp công dân VN sau gần 70 năm sống dưới sự cai trị tàn bạo và độc ác
thuần túy bằng bạo lực và mũi súng của CSVN tại MBVN và gần 40 năm với MNVN.
Đọc qua tất cả những bài nhận định và góp ý để thấy thể hiện trọn vẹn nỗi khao
khát vô bờ về một sự đổi thay mới mẻ cho người dân và cho đất nước .
Việc làm quan trọng nhất, cấp bách nhất và cần thiết nhất
mà hoàn cảnh hiện nay đang đòi hỏi là tìm kiếm một giải pháp khả thi và thực
tiễn để thay thế hiện trạng bằng một sự ĐỒNG THUẬN và ĐOÀN KẾT QUỐC GIA với MỘT
KHẾ ƯỚC XÃ HỘI mới để ký kết giữa toàn dân và chính quyền sẽ nắm quyền lãnh đạo
và cai trị đất nước. Vì thế phải làm sáng tỏ những luật lệ, nguyên tắc và những
tiêu chuẩn hiến pháp và chính trị dân chủ cộng hòa đã đưa đến tự do, phồn vinh
và thịnh vượng cho nhiều quốc gia trên thế giới sau khi họ ra khỏi những bi
kịch não nề của chiến tranh và xung đột đẫm máu. Đúng như Clinton Rossiter đã
viết, “không thể có hạnh phúc khi không có tự do. Không thể có tự do khi không
có chính quyền của dân, do dân và vì dân. Không thể có chính quyền mà không có
hiến pháp, không thể có hiến pháp mà không có đạo đức – tất cả những điều tốt
đẹp này không thể nào thành tựu được nếu không có trật tự và ổn định.”
Từ gần 70 năm qua, “dưới ánh sáng chỉ đường của chủ nghĩa
Mác-Lê, và tư tưởng HCM xã hội VN có hạnh phúc không, có tự do không, có chính
quyền của dân, do dân và vì dân không, có trật tự pháp lý và ổn định không?”
Nếu tất cả những câu trả lời là “không” thì tại sao “không”. Bởi vì khi xã hội
con người cai trị bởi CHÍNH QUYỀN CỦA CON NGƯỜI (government of man), chứ không
phải chính quyền của luật pháp (government of law) như Chủ Tịch Tối Cao Pháp
Viện HK là John Marshall đã nói ngay từ lúc nước Mỹ vừa lọt lòng mẹ như một hài
nhi vừa mở mắt chào đời. Đó là bài học tuyệt vời và cần thiết cho tất cả các
quốc gia nào muốn sống trong tự do và thịnh vượng như nước Mỹ thì phải xây dựng
chính quyền của luật pháp, bởi vì bản chất u ám của con người khi nắm giữ quyền
hành dễ đem đến tai vạ và thảm họa cho xã hội.
Đứng từ những quan niệm căn bản đó để nhìn vào thực trạng
đất nước VN mới thấy được sự thật là– mặc dù HCM và đảng CSVN đã viết ra 4 bản
hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 nhưng đây vẫn chưa là một KHẾ ƯỚC XÃ HỘI
(social contract) được thỏa thuận và ký kết giữa toàn dân và một chính quyền
nắm quyền hành để cai trị quốc gia. Những bản hiến pháp được viết ra vẫn là một
con đường một chiều. Những người nắm giữ quyền hành không được giới hạn và kiểm
soát nên đã thành tai vạ triền miên cho người dân phải gánh chịu hết nạn nọ đến
nạn kia mà không biết kêu cứu ỏ đâu
Đây là một thứ hiến pháp do những người thống trị viết ra
với sức mạnh của bạo lực để áp đặt lên toàn dân. Chính quyền của CSVN là CHÍNH
QUYỀN CỦA CON NGƯỜI VÀ CHÍNH QUYỀN CỦA BẠO LỰC, nên trật tự xã hội là trật tự
của mũi súng sẵn sàng trấn áp người dân và bắt người dân phải đoàn ngũ hóa như
bầy nô lệ dưới bạo lực. Đó là bản chất của trật tự xã hội độc tài đã nắm giữ
quyền hành quốc gia vô giới hạn. Vì thế “dưới ánh sáng chỉ đường của chủ nghĩa
Mác-Lê, tư tưởng HCM” chỉ là “ánh sáng chỉ đường của mũi súng của bạo lực thuần
túy” mà thôi. Dưới ánh sáng chỉ đường này người dân VN đành phải gục đầu câm
nín trong u uất nghẹn ngào. Và đảng CSVN lại coi đó là “ổn định” thật à? Từ sự
thật đó cho mọi người thấy người CS có muốn sửa đổi hiến pháp ra sao thì đó là
quyền riêng của họ, bởi vì họ đang là những người có súng trong tay. Và những
bản hiến pháp đó vẫn chưa phải là MỘT KHẾ ƯỚC XÃ HỘI như một BẢN HIẾN PHÁP DÂN
CHỦ được thỏa thuận và ký kết giữa toàn dân và chính quyền. Và chính quyền vẫn
là chính quyền của con người. Trong khi đất nước đang cần có một CHÍNH QUYỀN
HIẾN ĐỊNH (constitutional government) để cai trị quốc gia bằng hiến pháp và
luật pháp quốc gia. Đảng lãnh đạo,nhà nước quản lý đang làm cho con thuyền quốc
gia bị chìm đắm bất cứ lúc nào.
Sự thật là đảng CSVN chưa bao giờ cai trị đất nước VN
bằng hiến pháp và luật pháp bởi vì LUẬT LÀ GÌ… What is the law? Luther, người
cha đẻ ra CUỘC CẢI CÁCH TÔN GIÁO CỦA KITO GIÁO THUỘC TRƯỜNG PHÁI TIN LÀNH CƠ
ĐỐC GIÁO vào 1524 đã đưa ra câu hỏi và câu trả lời “Luật pháp là cái gì cho
phép con người làm và cái gì không được làm ”. Bốn bản hiến pháp do CSVN đã
viết ra không thấy có điều khoản nào quy định cho chính quyền CS không được làm
gì. Vì đây là những người có súng đạn trong tay và chủ trương bạo lực nên họ
muốn làm gì thì làm, không có gì và không có một ai kiểm soát họ được. Chính những
người nắm quyền hành trong xã hội đã tạo ra cảnh vô trật tự và bất ổn nhân tâm
thường xuyên trong đời sống xã hội. Muốn cứu con thuyền khỏi bị chìm thì phải
mau mau xây dựng hệ thống luật pháp công chính và nghiêm minh để cai trị dân,
chứ không thể tiếp tục để con người nắm giữ tất cả quyền hành vô giới hạn như
thế là biến họ thành ác thú man rợ với người dân. Phép nước mà bất minh thì chỉ
đem đến khổ đau chồng chất cho dân mà thôi. Tuyệt đối đừng để bất cứ con người
nào đứng trên phép nước nữa. Phải đem luật pháp quốc gia ra mà bảo vệ toàn dân
thì dân mới sống được.
Ngược lại, xã hội VN muốn có trật tự và ổn định thật sự
thì phải tôn trọng tự do tâm hồn, tự do trí tuệ và tự do thân xác của toàn dân,
cũng như tự do trong đời sống xã hội. Vì thế, phải XÂY DỰNG TRẬT TỰ HIẾN PHÁP
(constitutional order), trật tự chính trị phải là trật tự của hiến pháp, đặc
biệt là TRẬT TỰ ĐẠO ĐỨC (ethical order) bằng một KHẾ ƯỚC XÃ HỘI thật sự có sự
thỏa thuận và ký kết giữa toàn dân và chính quyền để thành lập CHÍNH QUYỀN HIẾN
ĐỊNH VÀ CHÍNH QUYỀN CỦA LUẬT PHÁP, mà không phải CHÍNH QUYỀN CỦA CON NGƯỜI như
trước đây nữa. Không có chính quyền của luật pháp và hiến định thì không lấy gì
để kềm hãm dục vọng của quyền lực, sự lạm quyền của các viên chức chính quyền.
Đúng như Sir Acton đã nói:
Power corrupts and absolute power corrupts absolutely.
Sự sa đọa của quyền hành và quyền hành tuyệt đối sẽ đưa
đến sa đọa tuyệt đối Nghĩa là người nắm giữ quyền hành đã trở thành những con
thú man rợ đối với dân. Đó là điều thường xảy ra dưới các chế độ độc tài và xảy
ra thường xuyên tại VN, Trung Hoa và các nước Á Châu, nơi đó quan niệm về chính
trị cũng như luật pháp rất lạc hậu và cổ lỗ . Đã đến lúc phải thay đổi chuyển
hóa luật pháp và chính trị.
I. TẠI SAO BÀI NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý CỦA
HĐGMVN BỊ TẤN CÔNG VÀ HẠ NHỤC?
Khi đảng CSVN đưa ra việc sửa đổi và tu chỉnh hiến pháp,
mọi người tưởng là sẽ có những thay đổi mới mẻ nên đã nhiệt tình đưa ra những
đóng góp để sửa đổi. Trong dịp này HĐGMVN đã đưa ra nhận định và góp ý sửa đổi.
Bản nhận định và góp ý này có thể tóm lược như sau:
1. QUYỀN CỦA CON NGƯỜI
Theo HĐGM thì Dự thảo sửa đổi đã dành cả chương ii (điều
15-52) để nói về quyền của con người đã được nhắc trong bản TNQTNQ và VN đã ký
kết tôn trọng. Bản dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con
người. Vấn đề là làm thế nào để những quyền ấy được hiểu, tôn trọng, bảo vệ,
đảm bảo theo luật pháp thực tế.
2. QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Về chủ điểm then chốt này, HĐGM đã nhận định như sau:
quyền bình chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể các quyền
bình chính trị phải là chính nhân dân xét như toàn thể trong đất nước. Nhân dân
trao quyền bình chính trị cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu
làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị nào, chỉ khi đó
mới có được nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Vì thế việc ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu
trong xã hội dân chủ, văn minh và lành mạnh.
Đồng thời việc bỏ phiếu khách quan, công khai và công
bằng là đòi hỏi cần thiết để người dân có được những người đại diện mà họ tín
nhiệm. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những người đại diện mà họ
đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó.
3. THI HÀNH QUYỀN BÍNH CHÍNH TRỊ
HĐGM nhận thấy rằng quyền bính chính trị mà nhân dân trao
cho nhà cầm quyền chia ra thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những
quyền này được thi hành một cách đúng đắn và có hiệu quả cần có sự độc lập
chính đảng của mỗi bên và vì công ích của toàn thể xã hội. Trong thực tế VN
trong nhiều năm qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm
quyền là lộng quyền, gây ra nhiều điều bất công, suy thoái về nhiều mặt “kinh
tế, xã hội, đạo đức”. Cuối cùng người dân phải gánh chịu mối hậu quả và VN cho
đến nay vẫn được coi là một quốc gia kém phát triển.
Sau khi bài nhận định và góp ý của HĐGMVN cho tu chính
hiến pháp 1992 đưa như một tia sáng lung linh chiếu vào bóng tối âm u của dòng
sử mệnh Việt . Đột nhiên có một người tự xưng là một giáo dân thuộc giáo xứ Cao
Lãnh, có tên là Nguyễn Trọng Nghĩa đưa ra bài viết để phê bình, chỉ trích đủ
điều, bắt HĐGMVN phải làm sáng tỏ một số thắc mắc và thách thức HĐGMVN đối
thoại với tác giả. Bài viết này đã được đăng trịnh trọng trên tờ Nhân Dân, cơ
quan ngôn luận quan trọng nhất của đảng CSVN. Nếu bài viết này không đăng trên
tờ Nhân Dân thì sau khi đọc xong, người giáo dân hải ngoại sẽ bỏ qua một bên.
Như thế này thì chúng ta đã có vấn đề với Đảng CSVN, không phải với người “giáo
dân” NTN. Bởi vì bài viết chỉ thấy những ngụy biện, thiếu ngay thật, thiếu
khách quan, không có giá trị để làm căn bản đối ứng với giá trị được phê bình,
thiếu sự lương thiện trí thức cũng như sự công bình tối thiểu khi viết phê bình
một bản văn nghiêm chỉnh và nhiều ý nghĩa sâu xa của một Nhận Định và Góp Ý cho
một hiến pháp dân chủ mà HĐGMVN đã đưa ra.
Hơn nữa, tin tức nhận được từ Cao Lãnh đưa ra cho biết
tên NTNghĩa, trên dưới 40 tuổi là người chưa học hết bậc trung học. Với tình
trạng non nớt như thế có thể nào viết bài phản bác HĐGMVN lại có thể sắc sảo như
thế được không ? Dĩ nhiên bài viết đã chứng tỏ trình độ trí thức lão luyện vá
sắc bén của tác giả, nhưng đây là một người trí thức mang thân khuyển mã khi
tìm mọi cách để biện minh và chống đỡ cho vai trò lãnh đạo độc tôn cua Đảng
CSVN .Đồng thời lại tìm mọi cách để “vô hiệu hóa” những đóng góp quá cao quý,
và quá cần thiết cho sự thay đổi tốt đẹp cho đất nước hiện nay của HĐGMVN để có
một nhà nước pháp quyền chân chính. Đây là nền dân chủ pháp trị (legal
democracy) hay nhà nước pháp quyền (rules of law) mà chính Đảng CSVN muốn xây
dựng.
Nói tóm lại, đây là bài viết của những người cộng sản
tinh hoa nhất, trung thành nhất nằm trong Ban Tư Tưởng và Văn Hóa trực thuộc Bộ
Chính Trị Trung Ương của đảng CSVN. Những người này đã mượn chiếc mặt nạ và
chiếc áo giáo dân của NTNghĩa để “chính danh định phận” cho bài viết của họ,
một bài viết đày tính chất “cưỡng từ đoạt lý “ trước mọi sự thật và lẽ phải mà
HĐGMVN đã đưa ra. Điều khiến cho người giáo dân hải ngoại chú ý hơn cả là những
lời kết luận của bài văn phản bác đã viết như sau: “Các vị Giám Mục không thể
đại diện cho toàn thể Dân Chúa tại Việt Nam để góp ý hiến pháp. Nhưng các ngài
làm như rằng cả giáo hội gồm 7 triệu giáo dân cũng đồng quan điểm với các ngài.
Đây là quyền chính trị của mỗi giáo dân, cớ sao các ngài lại lợi dụng chúng con
để gây sức ép? Điều này rất mong các Ngài trả lời cho chúng con rõ. Con cho
rằng các vị Giám Mục cũng là một công dân thì cũng sẽ là bản góp ý cá nhân, chứ
không thể là HĐGMVN hay các vị Giám Mục VN. Mong các Ngài nghĩ lại. ”
Đảng CSVN và những người CS phải thấy rằng, tình hình và
hoàn cảnh hiện nay của đất nước đòi hỏi phải thay đổi, không thể làm khác được.
Vì thế Đảng CSVN đã kêu gọi góp ý thì phải tôn trọng những góp ý của HĐGMVN, và
của những ngưới công dân VN khác, cớ sao lại đả phá và hạ nhục HĐGMVN? Đừng
thách thức HĐGMVN đối thoại. Tại sao Bộ chính trị Trung Ương Đảng và cả Ban Tư
Tưởng và Văn Hóa Trung Ương không đối thoại với người công dân và giáo dân hải
ngoại như tôi ? Cứ thẳng thắn viết ra cho mọi người cùng đọc, rồi người công
dân này sẽ chia sẻ về những khía cạnh làm nên đời sống của một quốc gia với quý
ông và mọi người dân Việt để cùng nhau tìm ra một SINH LỘ CHO DÂN TỘC VIỆT NAM.
Trong đó các ông có quyền sống riêng của các ông và chỉ xin các ông tôn trọng Hiến
Pháp và Luật Pháp quốc gia và tôn trọng quyền sống của 90 triệu người dân Việt.
Phải chấm dứt ngay cái cảnh Đảng CSVN là luật và luật là Đảng. Luật pháp quốc
gia phải là hiện thân của ĐẠO ĐỨC và CÔNG LÝ.Có luật pháp mà không có hai giá
trị nền tảng đó thì cũng như chưa có luật gì cả.
Các ông nói người dân có quyền nói lên chính kiến chính
trị của mỗi công dân và các ông cho rằng HĐGMVN không thể đại diện cho toàn thể
Dân Chúa tại VN, thì tại sao các ông lại tự cho phép Đảng CSVN đại diện toàn
dân VN, trong đó có cả tôi ? các ông cần làm sáng tỏ sự mạo nhận này khi các
ông xử dụng hai chữ”NHÂN DÂN” từ 70 năm qua để đè đầu cưỡi cổ toàn dân VN quá
tàn bạo và độc ác không sao lường được . Chúng tôi cũng chỉ yêu cầu các ông
chấm dứt sự mạo danh này, giống như các ông đã yêu cầu HĐGMVN chấm dứt sự mạo
danh Dân Chúa tại VN. Tiện đây tôi cũng xin lần lượt kể ra 5 sự mạo danh mà các
ông cần chấm dứt:
1/ Đảng CSVN đã mạo danh hai chữ “NHÂN DÂN” mà chưa bao
giờ biết lo cho NHÂN DÂN và biết thương yêu và tôn trọng những quyền căn bản tự
nhiên của dân. Vì thế các ông chưa bao giờ là hiện thân của NHÂN DÂN VN cả. Các
ông cũng chỉ đeo mặt nạ NHÂn DÂN hay mạo danh NHÂn DÂN mà thôi.
2/ Đảng CSVN đã viết 4 bản hiến pháp, nhưng đó vẫn chưa
phải là một KHẾ ƯỚC XÃ HỘI có sự thỏa thuận của toàn dân VN thì làm sao được
coi là HIẾN PHÁP QUỐC GIA ? Nếu các ông đã công nhận QUYỀN TỐI THƯỢNG
(sovereignty) thuộc về toàn dân thì tại sao không để toàn dân thực thi quyền
tối thượng của họ là quyền viết HP cho quốc gia, mà các ông lại viết HP cho
Việt Nam ? Như thế các ông chỉ mới có hiến pháp của Đảng và chiếc mặt nạ HP,mà
không phải HP quốc gia. Không hiểu những con người đang ngối trong cái gọi là
”‘QUỐC HỘI VN” để lập pháp có nhận ra luật pháp của Đảng CSVN viết ra mang bản
chất gì ,vá đó có đủ tiêu chuản của một hiến pháp quốc gia không ?
3/ Trong một nhà nước mà các ông gọi là”nhà nước pháp
quyền”(rules of law)có nghĩa là gì ,các ông biết không ? Nhà nước pháp quyền là
tất cả mọi thành viên trong xã hội đều phải tuân theo luật pháp, và không có ai
được phép đứng trên luật pháp, kể cả vua chúa. Nhưng đảng CSVN của các ông vẫn
đứng trên luật pháp và vi phạm những quyền của dân từ 70 năm qua. Nên các ông
chỉ mới có chiếc mặt nạ của nhà nước pháp quyền,mà chưa thực sự có nhà nước
pháp quyền.
4/ Dưới cái mà các ông gọi là ”ánh sáng chỉ đường của chủ
nghĩa Mác-Lê “, phải chăng chỉ là “ánh sáng chỉ đường của bạo lực và mũi súng “
để đàn áp muôn dân ? Vì chủ nghĩa này đã cho phép các ông, không chỉ xử dụng
bạo lực, mà còn cho phép các ông đứng trên hiến pháp, vì thế chủ nghĩa Mác-Lê
cũng chỉ là chiếc mặt nạ mà thôi. Đã đến lúc phải vứt bỏ nó đi như chính Marx
đã quay lưng với nó.
5/ Từ 70 năm qua các ông bắt cả nước phải “xây dựng xã
hội chủ nghĩa”. Nhưng các ông đã hiểu sai hoàn toàn ý nghĩa LÝ TƯỞNG XÃ HỘI.
Đảng CSVN có đào tạo được những con người có ý thức xã hội, biết quên thân mình
để sống cho tha nhân, có lòng nhân từ độ lượng, đạo đức xã hội, trách nhiệm xã
hội và đề cao công lý xã hội và an sinh phúc lợi cho toàn dân chưa mà các ông
đòi xây XHCN ? Hay đây cũng chỉ là chiếc mặt nạ XHCN mà thôi ? Đảng CSVN không
phải là những con người lý tưởng thì các ông lấy cái gì để xây dựng lý tưởng ?
Đó là những điểm vô cùng quan trọng mà đảng CSVN cần làm
sáng tỏ, cũng như những điểm mà các ông đòi hỏi HĐGMVN phải làm sáng tỏ cho quý
ông. Vì đây là quyền chính trị của mỗi công dân, đúng như các ông đã viết cho
HĐGMVN là—”không ai được lợi dụng ai”. Nếu các ông cho đây là QUYỀN CÔNG DÂN
thì đây chính là quyền có “chính kiến chính trị” của riêng tôi mà các ông phải
tôn trọng và phải làm thật sáng tỏ những điều công dân nêu ra cho các ông.
Trong bài Nhận Định và Góp Ý HĐGM đã thẳng thắn và can
đảm nhìn vào sự thật mà nói rằng,” nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt
giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Điều này đã thể hiện ngay trong nội
dung của Hiến Pháp 1992 ,và Dự Thảo Sửa Đổi vẫn tiếp tục đường lối đó”.Sau khi
đã lần lượt đưa ra ba chủ điểm mà tôi cho là nền tảng của Hiến Pháp không thể
thiếu được, gồm có quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân và thi hành
quyền bính chính trị.
Ngoài ra nội dung của bài Nhận Định và Góp Ý còn nhấn
mạnh đến những điểm như sau đây:
1. Cần có luật pháp có đủ hiệu năng để bảo vệ nhân quyền
và dân quyền cho toàn dân Việt Nam.
2. Thay đổi chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng HCM bằng truyền
thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng để tổ chức và điều hành xã hội VN.
3. Hiến pháp cần làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân,
không phải trên giấy tờ mà thực hành quyền làm chủ của dân.
4. Hiến pháp cần công nhận quyền sở hữu đất đai của người
dân, và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia khác.
5. Sắp xếp lại quyền hành để làm sáng tỏ tam quyền phân
lập trong cấu trúc quyền hành của quốc gia.
6. Luật pháp hóa quyền kiểm soát của nhân dân đối với
việc thi hành luật pháp quốc gia.
7. Cần công nhận quyền tham gia vào chính quyền của dân,
tức quyền bầu cử và ứng cử để góp tay vào việc tổ chức và điều hành chính
quyền.
II. NHÌN LẠI 4 BẢN HIẾN PHÁP CỦA CSVN ĐÃ
VIẾT RA TỪ 1946-1992 ĐỂ ĐỐI CHIẾU VỚI THỰC TẾ CỦA ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
TẠI VIỆT NAM XEM SAO
1/ Trong HP1946: Chương l, điều 10 có ghi như sau: “Các
công dân VN có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp. tự
do tín ngưỡng, và tự do đi lại trong và ngoài nước.”
2/ Trong HP 1959: Chương III, Điều 25 có xác định như
sau: “Các công dân nước VNDCCH có quyẻn tự do báo chí, hội họp và biểu tình.
Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng
quyền đó.
3/ Trong HP 1980:Chương V, Điều 67 có ghi rõ ràng là :
“Công dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu
tình, phải phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.”
4/ Trong HP 1992, Điều 66 lại nhắc lại:” Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin,có quyền hội họp,
lập hội, biểu tình theo qui định của luật pháp.”
Như vậy 4 bản HP của CSVN đều công nhận quyền con người
của tất cả công dân VN. Nhưng còn quyền làm chủ đất nước cuả toàn dân, HP của
CSVN có công nhận không? Trong HP 1959. Điều 4 có ghi như sau :QUYỀN LỰC QUỐC
GIA THUỘC VỀ NHÂN DÂN.Trong HP 1980, Điều 6 lại nhắc lại rằng: TẤT CẢ QUYỀN LỰC
THUỘC VỀ NHÂN DÂN. Nhân dân xử dụng quyền lực nhà nước thông qua QH và HĐNH các
cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Và trong HP 1992 còn
có đoạn ghi như sau : Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân,vì nhân
dân và cho nhân dân từ khi soạn HP, và thông qua HP 1946…Hiến Pháp 1959 và 1980
tiếp tục khẳng định các quyền được HP 1946 qui định.
,Hơn nữa, khi đề cập tới quyền chính trị, HP của CSVN
cũng đã đề cập đến như sau: “ Công dân có quyền tham gia quản lý xã hội và nhà
nước, tham gia thảo luận chung các vấn đề của đất nước và địa phương, có quyền
bầu cử và ứng cử vào QH và HĐNH…”
Đặc biệt và quan trọng hơn cả 4 bản hiến pháp chính là
Tuyên Ngôn độc Lập mà HCM đã long trọng đọc lên vào tháng 9-1945 tại Hà Nội do
chính HCM sao chép nguyên văn bản Tuyên ngôn Độc Lập của HK viết ra vào 1776
sau khi đã chiến thắng trong chiến tranh dành độc lập với Đế quốc Anh “Tất cả
con người sinh ra đều bình đẳng,và con người đã được Đấng Tạo Hóa ban cho những
quyền bất khả chuyển nhượng và không thể vi phạm được (inalienable rights),
trong các quyền đó có quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu và quyền tìm kiếm
hạnh phúc…”
Ngày nay, sau khi hưởng ứng lời kêu gọi góp ý sửa đổi
hiến pháp, HĐGMVN đã đưa ra Những Nhận Định và Góp Ý đúng như mà TNĐL của HCM
cũng như 4 bản Hiến Pháp mà CSVN đã tự ý viết ra từ 1946 đến nay. Nghĩa là
những gì CSVN đã viết ra thì bây giờ phải thi hành trên thực tế, chứ không phải
chỉ trên giấy tờ. Tại sao Đảng CSVN lại cho người tấn công và hạ nhục HĐGMVN ?
Trước những điều nghịch lý và kỳ bí như thế của Đảng CSVN
mọi người không thể không có những thắc mắc và đặt ra những nghi vấn và tra vấn
. Tại sao TNĐL và 4 bản HP đều đã thừa nhận quyền tối thượng quốc gia thuộc về
toàn dân. quyền làm chủ đất nước cũng thuộc về toàn dân, mà Điều 57 của Dự Thảo
HP mới lại không cho phép người dân được quyền sở hữu đất đai? Tại sao quyền
tối thượng của quốc gia thuộc về toàn dân, mà nhân quyền và dân quyền của dân
không được bảo đảm và không có hệ thống luật pháp đủ hiệu năng bảo vệ những
quyền bất khả chuyển nhượng và không thể vi phạm được của dân? Quyền tối thượng
của quốc gia thuộc về toàn dân thì chỉ có toàn dân mới có quyền viết hiến pháp,
tại sao Đảng CSVN là những người không có quyền tối thượng quốc gia mà lại viết
hiến pháp cho quốc gia ? Hiến pháp quốc gia là luật tối cao của đất nước và là
MỘT KHẾ ƯỚC XÃ HỘI (social contract) thì phải có sự thỏa thuận của toàn dân.
Những bản HP do CSVN đã viết ra có sự thỏa thuận của toàn dân chưa ?Từ những sự
thật ấy cho mọi người thấy chính quyền CSVN có phải chính quyền hiến định
(constitutional government) không ?
Tại sao Đảng CSVN đi rêu rao với quốc tế rằng, nhân
quyền tại VN đang rất phát triển. Nghĩa là những quyền căn bản của dân đã được
tôn trọng, có thật không ? Nếu nhân quyền được tôn trọng, thì Đảng CSVN sẽ giải
thích như thế nào khi họ hiện đang có 700 cơ quan báo chí, với 15.000 nhà báo
chuyên nghiệp, 68 đài phát thanh, 80 đài truyền hình để làm công tác tuyên
truyền cho nhà nước và Đảng. Nhưng ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lại đưa ra một
pháp lệnh cho toàn dân VN: “nghiêm cấm tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức”.
Như thế thì người dân VN lấy phương tiện gì để thực thi quyền tự do ngôn luận
và quyền tự do báo chí cũng như quyền tự do được bày tỏ những chính kiến chính
trị của riêng họ ? Có phải Đảng CSVN muốn nói với quốc tế rằng, “Chính quyền
không cấm quyền của dân, tất cả đều có quyền phát biểu, nhưng họ chỉ có quyền
phát biểu theo đúng đường lối và chính sách của Đảng mà thôi. Luật của VN chúng
tôi cho quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, nhưng chống chính quyền là vi
phạm luật,là phản động phải nghiêm cấm.Tất cả những ai nói ngược lại chính sách
của nhà nước, chỉ trích nhà nước là vi phạm luật pháp quốc gia và chống phá nhà
nước “.
Lối nói này và hành động này của CSVN đúng là vừa
bịt miệng dân, vừa bằng luật vừa bằng mũi súng, và vừa nói:”cứ nói đi, mọi
người đều được tự do ngôn luận và tự do báo chí mà”
Điều 66, Hiến Pháp VN qui định: ”chủ nghĩa Mác-Lê và tư
tưởng HCM là nền tảng tư tưởng chủ đạo, tất cả mọi tầng lớp nhân dân phải tuân
theo “ .Và như thế tất cả những ai không nói theo tư tưởng chủ đạo thì đều vi
phạm hiến pháp và đều bị coi là chống phá nhà nước pháp quyền của CSVN. Thật
quá rõ ràng người dân VN đều có tự do…nhưng tự do không được làm và nói khác
Đảng. Nhân quyền tại VN khác nhân quyền của các quốc gia khác là ở chỗ này đây.
Ai cũng có quyền tự do phát biểu, nhưng phải phát biểu theo luật định, tức là
phát biểu theo Đảng…bởi vì Đảng là luật và luật là Đảng. Phải chăng đây cũng là
những khác biệt văn hóa của mỗi quốc gia ?Và phải chăng đây chính là quan niệm
nhân quyền của VN có chỗ khác với nhân quyền của Mỹ hay của thế giới ?
Thực tế là tình trạng luật pháp tại Việt Nam, CS tự để lộ
ra cho mọi người thấy Đảng CSVN vẫn chỉ có CHÍNH QUYỀN CỦA CON NGƯỜI ( the
government of man ),mà chưa xây dựng được MỘT CHÍNH QUYỀN CỦA LUẬT PHÁP
(government of law and rules of law), tức nhà nước pháp quyền như Đảng CSVN đã
nói.
Trọng tâm của luật pháp quốc gia là làm luật, giải thích
luật, áp dụng luật và thi hành luật phải công bằng.Trong khi ấy Đảng CSVN làm
luật, giải thích luật, áp dụng luật và thi hành luật đều tỏ ra vô cùng bất
công. Sự thật ấy cho thấy Hiến pháp và luật pháp của CSVN đã viết ra chắc chắn
không phải là luật pháp công chính và nghiêm minh của một quốc gia văn minh
thực sự.
Ngày nay Đảng CSVN vẫn muốn toàn dân VN phải tuân theo tư
tưởnh chủ đạo là chủ nghĩa Mác-Lê thì họ phả xét lại….bởi vì…Marx-Engels đã chối
bỏ nó vì nó có quà nhiều sai lầm. Tại sao đã biết là sai lầm mà vẫn muốn duy
tri và áp đật phũ phàng lên đầu lên cổ người dân Dất Việt,để làm cái gì đây ?
III. MARX VÀ ENGELS ĐÃ THÀNH THẬT THÚ NHẬN
RẰNG, CHỦ NGHĨA MARX SAI LẦM VÀ BẠO LỰC KHÔNG THỂ THÀNH XHCN ĐƯỢC. TẠI SAO ĐẢNG
CSVN CƯỠNG BÁCH TOÀN DÂN VN PHẢI TUÂN HÀNH THEO SỰ SAI LẦM ĐÓ TỪ 70 NĂM QUA MÀ
NAY VẪN CHƯA CHỊU TỪ BỎ ?
Trong tập “outline of a critique of political
economy”,Engels đã nói rằng: “Điều tôi biết rõ ràng là ngày nay chủ nghĩa Marx
là nhũng gì quá cổ lỗ lỗi thời,và nó không chỉ có toàn là những lỗi lầm mà thực
ra chỉ là những tiếng tru tréo gào thét như con chó sói “ howlers “
Có lần Engels đã thú thật, ”phần lớn những công trình
được viết ra ngày nay chẳng có lợi lộc gi cả”. Riêng Marx, ông đã thực sự quay
lưng với Ba Lê Công xã, quay lưng với tính chất đầy bạo lự của nó, vì bạo lực
đã không thể, và sẽ không thể nào là con người XHCN được. Khi marx bước vào
tuổi xế chiều vì đã nhận ra những sai lầm của mình nên đã ra lệnh cho tan hàng
đám đệ tử theo Marx trong Đảng CS,và đã nói với họ lời sau chót, “all I know is
that I am not a Marxist”.Tất cả điều tôi biết là tôi không phải là người
Marxist.
Engels càng về già càng sáng suốt hơn và có cái
nhìn thực tế hơn. Khi đó ông rút lại chủ trương bạo lực cách mạng mà Marx và
ông lúc còn trẻ đã cổ súy cho cách mạng CS. Đến bây giờ ông mới thấy và hy vọng
vào những giải pháp chính trị, vì nó là những gì sẽ đem đến những lợi lộc thiết
thực cho quần chúng. Vào 1885 Engels đã tuyên bố rằng, “Nghị Viện Anh, thật
chẳng còn gì để nghi ngờ nữa. Đó là MỘT CUỘC CÁCH MẠNG TUYỆT VỜI NHẤT THẾ GIỚI.
Và cuộc bầu cử sẽ mở ra một chu kỳ mới, dù sự kiện này mọi người chưa biết.
Nhưng rồi đây những công dân thợ thuyền sẽ có chân trong Nghị Viện Anh. Vào
1895, Engels ĐÃ THỪA NHẬN SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN, và tuyên bố rút lại
lời kêu gọi nổi dậy của tầng lớp vô sản mà Marx và ông đã chờ đợi từ lâu—nay
không còn giá trị nữa. Cái nhìn mới của Engels là cách mạng sẽ mang nhiều ảnh
hưởng và tác động mạnh mẽ khi cách mạng trở thành những nhà CẢI CÁCH DÂN CHỦ XÃ
HỘI (democratic socialist reformers).
Theo Robert Wesson, tác giả cuốn Why Marxism, thì nếu
chính trị cần sự chân chính, đạo đức và công bằng thì chủ nghĩa Marx và chủ
nghĩa CS chỉ là những sáo ngữ (bromide)không hơn không kém. Theo nhận định của
ông, chủ trương bạo lực của Cách Mạng Pháp đã thất bại thê thảm, bởi vì xung
đột giai cấp và căn bản kinh tế chỉ huy đã phá hủy tư tưởng và luân lý đạo đức.
Không có luân lý đạo đức, không thể có sự kính trọng những giá trị và quyền hạn
của người khác, không bị giới hạn quyền hành thì không có dân chủ. Không có
luật pháp thì không có gi để kềm hãm dục vọng quyền hành của tầng lớp lãnh đạo.
Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa CS đã nuôi dưỡng bạo lực và
hận thù, nuôi dưỡng sự sợ hãi và căng thẳng và thường xuyên tạo ra bầu không
khí đầy sự sợ hãi khiếp đảm cho toàn bộ xã hội…Tất cả những việc này đều khuyến
khích cho chế độ độc tài, mệnh lệnh và ý chí của đảng quan trọng gấp ngàn lần
sự sống của toàn dân.Vì thế hầu hết các lãnh tụ CS đều rất kiêu căng, phách
lối, tàn bạo và độc ác. Chủ nghĩa Marx vá chủ ngĩa CS nuôi dưỡng tầng lớp lãnh
đạo như thế thì mọi hứa hẹn cho ngày mai không thể nào có được. Đó là tất cả lý
do đã đưa bạo lực Cách mạng CS đến tội ác và bất lưc trong mọi xây dựng.
IV. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ ĐÁY TẦNG VÀ SỰ KHÁC
BIỆT GIỮA LUẬT DO TOÀN DÂN VIẾT RA VÀ LUẬT DO NHỮNG KẺ THỐNG TRỊ VIẾT RA
(RULER’S LAW AND PEOPLE’S LAW)
Theo các nhà lập quốc HK ( American Founding Fathers) sau
nhiều thế hệ đã bỏ ra 180 năm để nghiên cứu lịch sử chính trị thế giới trước
khi có cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ vào 1776 thì có hai kẻ thù nguy hiểm cho đời sống
của quốc gia là chế độ độc tài và vô chính phủ (anarchy and mobocracy). Đối với
các Quốc Phụ Hoa Kỳ thử thách lớn nhất đối với một con người văn minh là khám
phá ra phương pháp để xây dựng một chính quyền dưới sự kiểm soát của dân, chế
độ đó có thể loại bỏ được chế độ cai trị bởi đám đông quần chúng,và chế độ độc
tài. Họ cảm thấy rằng một mô thức chính trị (political formula) phải làm sao cho
chính quyền bảo đảm được TRẬT TỰ, ĐẠO ĐỨC và CÔNG LÝ,NHƯNG CHÍNH QUYỀN KHÔNG
ĐƯỢC CÓ NHIỀU QUYỀN HÀNH VÌ QUYỀN CÓ THỂ BỊ LẠM DỤNG ĐỂ GÂY ĐAU KHỔ CHO DÂN. Vì
thế đứng giửa hai chế độ độc tài và vô chính phủ, Hoa Kỳ đã chọn con đường
trung dung giữa hai chế độ độc tài và vô chính phủ. Đây là đặc tính của nền DÂN
CHỦ ĐÁY TẦNG (grass-roots democracy). Muốn bảo đảm quyền làm chủ của toàn dân
và bảo đảm nhân quyền và dân quyền thì phải có cuộc CÁCH MẠNG DÂN CHỦ ĐÁY TẦNG
thì mới có thể sắp xếp lại quyền hành theo mô hình Kim Tự Tháp để trao lại
quyền hành cho toàn dân thì nhân quyền và dân quyền mới được bảo đảm vững chắc
được.
Các Quốc Phụ Hoa Ky đã nhận thấy đã nhiều lần trong quá
khứ, những con người đau khổ đã chỗi dậy trong cơn cuồng nộ của cách mạng để
lật đổ gông cùm độc ác của độc tài. Nhưng mỗi lần như thế lại xảy ra bao thảm
kịch bi đát bởi vì thiếu hiểu biết về ngành khoa học chính trị đặt trên những
nguyên tắc vững chắc cho một guồng máy chính trị tự trị , tự quản và tự chủ của
dân. Vì thiếu chuẩn bị nên chẳng bao lâu người dân lại rơi vào tranh cãi giữa
người dân với nhau, gây nên những xung đột triền miên để đưa đến xô xát và giết
hại lẫn nhau, từ từ dẫn đến tình trạng vô chính phủ và hỗn loạn, sau đó sẽ có
người đứng ra tái lập trật tự bằng võ lực để xây nên một chế độc tài khác.
Cán cân của lịch sử luôn luôn đong đưa từ một chế độ độc
tài sang một chế độ hỗn loạn vô chính phủ,và rồi lại trở lại với chế độc tài.
Đó là lịch sử của Cách Mạng Pháp, và các cuộc cách mạng ở Trung Đông vừa qua.
Người Pháp đã vùng lên vào 1789 với chính nghĩa trong tay, nhưng một lực lượng
quá khích vô độ đã nắm giữ quyền hành để kiểm soát và họ đã giết chết 20.000
người, trong đó có 4000 người tinh hoa nhất của nước Pháp đã gục xuống vì bàn
tay đẫm máu của bạo lực mù quáng của cách mạng. La Fayette đã phải chạy trốn—và
quốc gia chẳng bao lâu rơi vào hỗn loạn triền miên để tạo nên một thứ vô chính
phủ hay một chế độ của đám đông quần chúng (mobocracy). Cuối cùng trong cơn hỗn
loạn và tuyệt vọng cùng cực, họ đã kêu gọi Napoleon để thành Hoàng Đế muôn đời
của nước Pháp. Thế là nước Pháp chỉ trong khoảnh khắc lại rơi vào vòng tay độc
tài thống trị. Nước Pháp muốn tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa.
Từ lăng kính của ngành khoa học chính trị muốn bảo vệ
người dân thì hiến pháp phải tính toán rất cẩn thận để chống lại hai kẻ thù là
độc tài và vô chính phủ và xây dựng nên một chính quyền chân chính. Các Quốc
Phụ Hoa Kỳ cho rằng tự do và hạnh phúc của dân có hai kẻ thù là độc tài và vô
chính phủ. Muốn bảo vệ trật tự và ổn định thì phải phân chia quyền hành cho
thật chính xác. DÂN CHỦ ĐÁY TẦNG CÓ NGHĨA LÀ TẤT CẢ QUYỀN HÀNH PHẢI XUẤT PHÁT
TỪ DÂN.
A. HAI HỆ THỐNG LUẬT PHÁP NGHỊCH CHIỀU NHAU: LUẬT PHÁP
VƯƠNG ĐẠO VÀ BÁ ĐẠO
Trong chiều hướng mới của lịch sử, các Quốc Phụ Hoa Kỳ
biết là họ đang đi khai phóng một chân trời mới. Trong quá khứ, 99% gia đình
nhân loại đã từng sống dưới những luật lệ của những kẻ thống trị ( ruler’s
law). Đây là những hệ thống chính trị mà tất cả quyền hành nằm trong tay người
thống trị. Tình trạng này xuất hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau như sau:
1- Chế độ quân chủ: đó là một chính quyền của hoàng gia
cai trị bởi người quân chủ (monarchy).
2-Chế độ chuyên quyền: (autocracy) chính quyền này cũng
được cai trị bởi một người hay một nhà độc tài.
3-Chế độ tài phiệt: (plutocracy) đó là một chính quyền
cai trị bởi môt đẳng cấp giầu có.
4- Chế độ quý tộc: (aristocracy) đó là một chính quyền
cai trị bởi truyền thống cha truyền con nối,và truyền tử lưu tôn của giai cấp
đặc quyền đặc lợi.
5- Chế độ tập đoàn thống trị: như CSVN hiện nay.chính
quyền này thống trị bởi một nhóm người dựa trên căn bản của bạo lực.
6- Đế quốc là một chế độ chiếm đóng các quốc gia khác để
thống trị người dân bản xứ.
7- Chế độ độc tài quân phiệt: là một chính quyền thống
trị bởi một người hay một nhóm quân nhân.
Luật pháp do người thống trị viết ra để xây nên một hình
thức chính quyền mà tất cả quyền hành và quyền lực hoàn toàn tập trung vào
trunng ương. Kẻ thống trị hay một tập đoàn thống trị tự họ viết ra luật, giải
thích luật, áp dụng luật, và thi hành luật. Các Quốc phụ Hoa Kỳ cho rằng sự gom
góp tất cả quyền hành như lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tay người thống
trị, một ngưới, một tập đoàn hay cha truyền con nối, truyền tử lưu tôn, tự
phong, hay tự xưng hùng xưng bá đều là những chế độ độc tài.
Ngược lại với luật pháp do các chế độ độc tài và những kẻ
thống trị viết ra (ruler’s law) là luật pháp do toàn dân viết ra (people’s
law); thay vì luật pháp của kẻ thống trị viết ra thì đây là luật do toàn dân
viết ra Vì thế các Quốc Phụ Hoa Kỳ cho rằng chúng ta phải tìm kiếm xem luật do
những kẻ thống trị viết có những đặc tính nào. Họ nhận thấy rằng độc tài là kẻ
thù vĩ đại nhất của tự do, và luật pháp do con người viết ra. Tất cả các chế độ
độc tài đều có chính quyền và luật pháp để xây dựng chính quyền, nhưng chính
quyền của họ không phải chính quyền của luật pháp (government of law) mà vẫn là
chính quyền của con người (government of man). Tại sao? Vì luật pháp mà thiếu
tự do, thiếu nền tảng đạo đức và công lý thì không phải luật pháp công chính và
nghiêm minh của một quốc gia văn minh— nên có luật mà không có giá trị của luật
thiên nhiên, thì vẫn được coi là chưa có luật gì cả.
B.BẢN CHẤT LUẬT PHÁP VÀ CHÍNH TRỊ ĐỘC TÀI VÀ BÁ ĐẠO CÓ
NHỮNG ĐẶC TÍNH GÌ ?
Các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã nghiên cứu và hiểu bản chất chính
trị bá đạo của thứ chính quyền bất chính (untrue government) gồm có những đặc
tính như sau:
1- Quyền hành của chính quyền có được là nhờ xử dụng bạo
lực để chiếm đoạt, cưỡng chiếm, xâm lăng, hoặc tự ý làm ra luật để chiếm đoạt
quyền hành của toàn dân.
2- Xử dụng bạo lực để gom góp tất cả quyền hành vào trong
tay của kẻ thống trị.
3- Tất cả người dân đều bị đối xử rất tàn tệ như những kẻ
bị trị dưới bàn tay của kẻ thống trị.
4- Tất cả đất đai ruộng vườn của quốc gia đều bị sang
đoạt để trở thành tài sản riêng của kẻ thống trị.
5- Toàn dân mất hết mọi quyền tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã
ban cho mỗi con người. Đó là những quyền bất khả chuyển nhượng và không thể vi
phạm được (inalienable rights).
6- Đây là chính quyền của con người, thay vì phải là
chính quyền của luật pháp hay có thể gọi là nhà nước pháp quyền (rules of law),
hay chính quyền hiến định (constitutional government).
7- Toàn dân bị áp đặt vào những giai cấp xã hội và kinh
tế.
8- Sự áp bức và đàn áp của chính quyền luôn luôn xuất
phát từ kẻ thống trị đè nặng lên thân phận não nề của toàn dân. Đây là thứ
quyền hành áp đặt từ trên xuống dưới, không phải từ dưới lên trên.
9- Những vấn đề của quốc gia và của toàn dân thường
thường được giải quyết bằng nghị quyết và mệnh lệnh của kẻ thống trị,tạo ra một
thứ thư lại rất nặng nề,tự chỉ định các chức vụ,và bắt dân nai lung ra trả thuế
kể thống trị có thêm phương tiện để đàn áp dân. Dưới hệ thống chính trị là luật
pháp bất minh và bất công. Những luật lệ và nghi quyết mang tính cách áp chế
người dân.
1- Tự do không bao giờ không bao giờ được coi là giải
pháp để giải các vấn nạn của quốc gia.
11- Lịch sử của những kẻ thống trị tự viết luật ra để hợp
lý hóa và chân chính hóa sự độc tài khắc nghiệt với toàn dân có một chiều dài
lịch sử chất chồng máu xương và nước mắt cũng như sự sợ hãi kinh hoàng mà những
kẻ thống trị đã đưa đến cho người dân,kéo từ thời thượng cổ cho đến thời hiện
đại.Những ai nắm quyền hành thì sống xa hoa,hoang phí trên nhung lụa; trong lúc
toàn dân thì sống đau khổ ,lay lứt trăm bề,và ngụp lặn trong nghèo đói xác
sơ,vì sưu cao thuế nặng,vì phải gánh đủ mọi thứ luật lệ khắt khe và bất công,và
cuộc sống của họ thì vô vọng não nề,đày vơi nước mắt không tìm đâu ra một ánh
sang hy vọng.
C.TỪ LUẬT CỦA NHỮNG KẺ THỐNG TRỊ ĐẾN LUẬT DO TOÀN DÂN
VIẾT RA ĐỂ XÂY DỰNG NÊN CHÍNH QUYỀN HIẾN ĐỊNH CHO QUỐC GIA.
Sự thất bại của Cách Mạng CS đã quá rõ ràng. Vì thế BÀI
HỌC TƯ BẢN VÀ BÀI HỌC CỘNG SẢN là hai bài học lịch sử chính trị và cách mạng vĩ
đại nhất của những con người thời đại mà thế kỷ 20th đã để lại cho tất cả chúng
ta. Nhu cầu của thời đại là nhu cầu cách mạng dân chủ và cách mạng pháp lý
(legal revolution), nếu con người muốn có một cuộc cách mạng không đổ máu
(bloodless revolution) thì phải chú trọng tới cách mạng pháp lý. Bởi vì bạo lực
cách mạng của cộng sản đã và đang trở thành tội ác và bất lực mà chính Marx và
Engels đã sáng suốt nhận ra lúc họ về già,và chính họ đã mong chờ có những NHÀ
CẢI CÁCH DÂN CHỦ XÃ HỘI (democratic socialist reformers) như những cuộc CÁCH
MẠNG CỘNG HÒA VÀ PHÁP LÝ ĐÃ XẢY TẠI NƯỚC ANH vào 1640 và 1688 cũng như đã xảy
ra tại Mỹ vào 1776. Đặc biệt là Cách Mạng Hoa Kỳ, trong đó những nhà cách mạng
đều là những công dân của Đế quốc Anh, một chế độ được xây dựng nên dưới hình
thức giới hạn là nhà vua viết luật cho quốc gia.Tại các thuộc địa Hoa Kỳ đã có
những khuynh hướng thay đổi để toàn dân viết luật cho quốc gia từ từ xuất
hiện.Những luật lệ mang tính cách áp chế (oppressive rules) bị loại bỏ bởi
Tuyên Ngôn Độc Lập. Nhưng các Nhà Lập Quốc có thêm 4 năm trước khi họ có thể
thành lập nên một hệ thống chính trị mà do toàn dân viết luật cho quốc gia (the
people’s law). Giống như tất cả các giống dân khác, đột nhiên lao vào chiến
tranh giành độc lập và sau đó được tự do mà họ lại không biết làm gì với quyền
tự do mà họ vừa có được .Tuy nhiiên, một số nhỏ trong các Nhà Lập Quốc, đặc
biệt là Thomas Jefferson, người đã hoàn tất công trình nghiên cứu để phát triển
tài năng mà nhiệm vụ của ông phải làm .Các Nhà Lập Quốc đã ý thức được là họ
phải tìm một mô thức chính trị để tạo ra sự thăng bằng giữa hai đối cực quá độ
là chế độ độc tài và vô chính phủ, dưới lăng kính của chính trị là một hệ thống
chính trị do toàn dân viết luật cho quốc gia trên một biểu đồ dưới đây:
Quyền hành quốc gia thuộc về toàn dân, với một trật tự
của quyền hành từ dân mà xuất phát ra để bảo vệ những quyền công dân của họ.
Thomas Jefferson đã mô tả rõ ràng trong Tuyên Ngôn Độc Lập: “Để bảo đảm an ninh
cho những quyền này, chính quyền được lập nên giữa người dân với nhau, vì thế
tất cả quyền hành chân chính (true authority) của chính quyền đến từ sự chấp
thuận của người dân được cai trị…Bất cứ khi nào chính quyền không đạt được
những cứu cánh cho toàn dân—thì lúc đó dân có quyền thay đổi chính quyền khác,
hay phế bỏ chính quyền đó đi để lập nên một chính quyền mới đặt trên nền tảng
với những nguyên tắc để sắp xếp lại quyền hành làm sao để bảo đảm an toàn cho
những quyền của dân “ ( viết theo công trình nghiên cứu của W Cleon
Skousen,1985,Washington DC ).
D.NHỮNG NGUYÊN TẮC CỔ XƯA CỦA DO THÁI THỜI LẬP QUỐC ĐƯỢC
TÌM THẤY TRONG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA HOA KỲ NHƯ MỘT QUAN NIỆM NỀN TẢNG CHO
LUẬT PHÁP TỰ DO DÂN CHỦ.
1- Một chính quyền chân chính phải đặt nền tảng trên tự
chính bản thân của con người đã thấy được sự thật từ chân tâm của chính mình,
những giá trị thật sự phải trong sáng, hợp lý và đạo đức là giá trị mà họ phải
có để được tin cậy.
2- Chỗ đứng của nhân loại đều bình đẳng, tại đây và ngay
dưới trần gian này là một thực tế trong Trời đất là điều quá hiển nhiên và con
người đã được hưởng là luật thiên nhiên và luật của Thiên Chúa trong thiên
nhiên.
3- Giả sử như (chính bản thân mình đã thể nhiệm qua sự
thật đó) là Đấng Tạo hóa đã sinh ra những con người đều bình đẳng, trong những
quyền mà con người có là bình đẳng trước tòa công lý,và bính đẳng trong mọi
nhận thức, thể nghiệm và trắc nghiệm.
4- Những quyền này đã được Đấng Tạo Hóa đã ban cho mỗi
con người mà không thể mất đi hay vi phạm mà không có sự thịnh nộ của Tạo Hóa.
Một người có thể có những quyền khác nữa mà luật pháp đã đưa đến cho họ, nhưng
những quyền này đưa đến cũng có thể lấy đi. Người có quyền đó có thể bị thay
thế và loại bỏ bất cứ lúc nào.
5- Giữa những quyền bất khả chuyển nhượng hay vi phạm là
quyền sống,quyền tự do,quyền tư hữu,và quyền tìm kiếm theo đuổi bất cứ việc gì
làm nên sự sống cho con người khi họ muốn tìm kiếm hạnh phúc,họ có quyền đó nếu
họ không vi phạm những quyền của người khác.
6- Lý do căn bản nhất cho một cộng đồng hay một quốc gia
là thành lập nên một hệ thống chính quyền để bảo đảm đời sống cho những người
đang sống trong đó,và những quyền của dân phải được duy trì và bảo vệ.
7- Và vì thế, kế tiếp là—không có một viên chức hay nhân
viên chính quyền nào có quyền gì cả, ngoại trừ người dân trao quyền cho họ làm
đại diện cho người dân.
8- Cũng trên chiều hướng đó, nếu giả sử một chính quyền
phạm phải những lỗi lầm khi xử dụng quyền hành hay xao lãng bổn phận và trách
nhiệm, là không bảo vệ những quyền của dân—hoặc tệ hơn nữa, nếu tự tay chính
quyền vi phạm vào quyền của dân,và nếu như thế thì bổn phận của dân là nắm lại
quyền kiểm soát những việc làm trong chính quyền, và thành lập một chính quyền
khác, chính quyền mới sẽ phục vụ dân tốt đẹp hơn.
Tất cả vấn đề còn lại là làm thế nào để có một chính
quyền thật vững mạnh và tốt đẹp. Vì vậy cần làm sang tỏ QUYỀN HÀNH QUỐC GIA
THUỘC VỀ TOÀN DÂN. Tuy nhiên chỉ có DÂN CHỦ ĐÁY TẦNG mới bảo vệ được quyền làm
chủ của toàn dân mà thôi.
V. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA HDGMVN VÀ CÁC TÔN
GIÁO TRƯỚC TRƯỚC NGUY CƠ CHÌM ĐẮM CỦA CON THUYỀN VIỆT NAM ĐANG LÊNH ĐÊNH TRÊN
BIỂN KHƠI
Đã 70 năm qua đi kể từ ngày HCM và Đảng CSVN đem tà
thuyết vô thần CS, và những khẩu hiệu lý tưởng cách mạng giả dối để áp đặt lên
thân phận não nề của Dân Tộc VN. Dòng sử mệnh Việt từ đó chỉ thấy máu xương, mồ
hôi và nước mắt tràn ngập trong đời sống cá thể và tập thể của người dân Việt cho
đến hôm nay.Thực tế đó tự chứng minh cho thấy vô thần không thể mang đến tình
thương và đạo đức cho con người và cho xã hội được, cũng như bạo lực không thể
đem đến tự do, niềm tin, hòa bình, công lý và hạnh phúc cho toàn dân được; bởi
vì bạo lực mù quáng của Cách Mạng CS cuối cùng chỉ để lại TỘI ÁC và BẤT LỰC
trong tất cả mọi xây dựng con người và xã hội. Và đắng cay hơn nữa là tất cả lý
tưởng chỉ là những khẩu hiệu, và những chiếc mặt nạ mà những lãnh tụ CS đã
khoác vào để che giấu đi những dục vọng quyền hành vô độ của Đảng CS, cũng như
che giấu đi tất cả sự thật và lẽ phải, và che giấu luôn những thực tế não nề
trong đời sống thực tế của muôn triệu con người đang sống dưới quyền uy của bạo
lực và mũi súng .Quyền uy của bạo lực và mũi súng luôn luôn áp chế và đe dọa
thể xác, tâm hồn và trí tuệ của các tu sĩ trí thức trong các tôn giáo và tầng
lớp trí thức. Và cả hai thành phần này bị khai thác trục lợi thật tàn nhẫn, sau
đó lại tìm mọi cách để trấn áp và hủy diệt để khai sinh ra một xã hôi chìm đắm
trong đau khổ, nghèo đói và sống lăn lộn trong bóng tối của vô minh, làm cho
những ngọn đèn của lương tâm con người lịm tắt trong đêm sâu của bi kịch quê
hương VN. Đời sống vì thế nhìn đâu cũng chỉ thấy bất nhân, vô đạo đức và vô
vọng. Tất cả mọi hứa hẹn cho ngày mai cuối cùng chỉ thấy những khẩu hiệu trơ
trẽn mà thôi. Vì thế cách mạng tự chứng tỏ mình chỉ là hiện thân của TỘI ÁC và
BẤT LỰC thật. Nhưng những người CS thường tìm mọi cách để giấu giếm và chống đỡ
cho TỘI ÁC và sự BẤT LỰC của họ một cách hết sức vụng về và họ cũng không cần
biết 90 triệu người dân Việt đang nghĩ gì, và đang cảm thấy gì về nhũng sự thật
lịch sử đau đớn đó mà Đảng CSVN đã mang đến cho Dân Tộc của họ ?
Trên dòng sử mệnh quá bi thương và cay đắng đó, HĐGMVN và
các tôn giáo như Phật Giáo, Cao Đài, Tin Lành và Hòa Hảo đều đã hưởng ứng lời
kêu gọi góp ý sửa đổi hiến pháp để yêu cầu Đảng CSVN trả lại những quyền căn
bản tự nhiên của toàn dân, kêu gọi trả lại quyền làm chủ đất nước và quyền tối
thượng của toàn dân. Tất cả những đòi hỏi chính đáng này hoàn toàn phù hợp với
Tuyên Ngôn Độc Lập mà HCM đã long trọng đọc lên vào 1945 tại Hà Nội, và hoàn
toàn phù hợp với 4 bản hiến pháp mà Đảng CSVN đã tự ý viết ra từ 1946 đến nay.
Đã đến lúc luật pháp quốc gia phải thi hành nghiêm chỉnh và không có ai được
quyền đứng trên luật pháp quốc gia như Đảng CSVN đã làm từ 70 năm qua.. Thực tế
cho thấy con thuyền VN do Đảng CSVN lèo lái từ 70 năm qua luôn luôn lênh đên
trong bão tố, và bây giờ có nhiều dấu hiệu cho thấy con thuyền có thể bị đắm
bất cứ lúc nào. Khi con thuyền bị đắm thì mọi người sẽ chết hết,và Đảng CSVN
cũng chẳng ai thoát khỏi sự chết. Dù Đảng CSVN có tiếp tục nắm vai trò lãnh đạo
tuyệt đối và toàn diện thì một mình Đảng CSVN cũng không đủ sức lực để cứu con
thuyền khỏi bị đắm, nếu không có bàn tay của HĐGMVN, các tôn giáo và toàn dân
VN góp vào. Phải thay đổi chuyển hóa những con người của tội ác và bất lực
thành những con người nhân từ và có đủ hiệu năng để cứu vãn lại niềm tin đang
giãy chết trong lòng người dân Việt. Đảng CSVN phải sáng suốt để thấy rằng
HĐGMVN và các tôn giáo sẽ là và phải là ÁNH SÁNG CỦA NIỀM TIN, TÌNH YÊU, ĐẠO
ĐỨC VÀ HY VỌNG cho con thuyền sắp đắm chìm trong cơn bão tố.
Các tu sĩ và tôn giáo tuyệt đối không nắm giữ bất cứ vai
trò gì trong chính quyền, và tuyệt đối không nắm quyền lực chính trị dưới bất
cứ hình thức nào. Đó là nhiệm vụ riêng của xã hội dân sự của thế tục. Tuy
nhiên, TÔN GIÁO VÀ TẦNG LỚP TU SĨ TRÍ THỨC LẠI ĐÓNG VAI TRÒ VÔ HẠN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG NIỀM TIN, XÂY DỰNG TÌNH NGƯỜI, XÂY DỰNG TINH THẦN, XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC VÀ
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TRÍ THỨC cho con người, để đem đến bản chất tốt đẹp cho tầng
lớp lãnh đạo quốc gia trong guồng máy công quyền, cũng như cho người dân, nếu
họ muốn được làm chủ đất nước, và muốn bảo vệ những quyền sống, quyền tự do,
quyền tư hữu và quyền tìm kiếm hạnh phúc của họ. Tôn giáo và tầng lớp tu sĩ trí
thức cũng có thể cung cấp cho con người và xã hội những luật lệ của đạo đức, và
những nguyên tắc và tiêu chuẩn của đạo đức để phục hồi lại niềm tin và hy vọng
cho con thuyền đang sống trong sự đe dọa bị chìm đắm; bởi vì lương tâm, lương
tri, lương năng và đạo đức của con người đã bị phá sản tận nền tảng vì chủ
trương cai trị đất nước bằng bạo lực và mũi súng của Đảng CSVN từ 70 năm qua.
HĐGM và các tôn giáo là ánh sáng hy vọng – bởi vì qua đường lối giáo dục sáng
suốt và biết tôn trọng đạo lý của Thượng Đế Toán Năng và luật cuả Trời cao –
những người dân bình thường sẽ trở thành những tài năng tuyệt vời. Khi giáo dục
quốc gia chú trong giáo dục TÂM HỒN và TRÍ TUỆ cho con người để họ hấp thụ được
những giá trị cao quý nhất thì quốc gia sẽ có được những nhà lãnh đạo ưu tú và
những công dân gương mẫu để quốc gia trở nên hùng cường và thịnh vượng
Kể từ ngày Đảng CSVN chối bỏ tôn giáo, gạt tôn giáo sang
bên lề xã hội hay khai thác trục lợi tôn giáo như những phương tiện, khi xong
việc thì vứt bỏ như đồ phế thải. Con người và cả xã hội từ từ rơi vào sa đọa,
hư hỏng và đồi trụy không làm sao cứu vãn được. Sự mất mát những gíá trị tinh
thần, đạo đức và trí thức của con người và của xã hội là những mất mát đầy thảm
họa cho một quốc gia chưa phát triển. Con người VN phải có khả năng nhìn vào
lịch sử xây dựng quốc gia Hoa Kỳ như một bài học cần thiết nhất để rút tỉa kinh
nhiệm về những bài học về tôn giáo và chính trị. Thí dụ như, trong thời lập
quốc, George Washington đã cho rằng, tất cả mọi sự đều tùy thuộc vào bản chất
của người dân và bản chất của chính quyền mà người dân lựa chọn. Theo
Washington, tất cả mọi sự sắp xếp và những tập quán đưa đến sự thăng hoa cho
đời sống chính trị quốc gia không thể thiếu và không thể tách rời khỏi tôn giáo
và đạo đức. Luật pháp quốc gia sản sinh từ đạo đức quốc gia, và đạo đức quốc
gia sản sinh từ những chiếc nôi của tôn giáo. Ông đã xác quyết rằng, không thể
nào cai trị quốc gia mà không cần tới Thượng Đế Chí Tôn và cuốn Thánh Kinh
được. Và cuốn TK chính là cuốn sách luật về ĐẠO ĐỨC VÀ CÔNG LÝ cho cả vũ trụ và
cả thế giới con người. Đó là HAI GIÁ TRỊ NỀN TẢNG mà các tôn giáo đều có, và
đều muốn đưa đến cho con người và xã hội con người để nhào nặn uốn nắn nên bản
chất tốt đẹp cho những người dân muốn làm chủ đất nước của họ để sống trong
thanh bình và hạnh phúc và nhào nặn uốn nắn nên bản chất tốt đẹp cho những nhà
lãnh đạo quốc gia.
Từ những sự thật ấy cho thấy, những vị cứu tinh của con
thuyền VN đang có nhiều dấu hiệu bị đắm trên sóng nước đại dương chính là
HĐGMVN VÀ CÁC CHÍNH GIÁO tại VN. Bởi vì HĐGMVN và các tôn giáo có thể cứu vãn
niềm tin của toàn dân được mà thôi. Đảng CSVN phải sáng suốt thấy rằng chính
chủ trương bạo lực và mũi súng của họ đã làm cho toàn dân VN phải chịu đựng quá
nhiều cái chết đắng cay từ 70 năm rồi. Làm sao người dân còn có thể tin gì vào
đảng CS nũa? Vì thế tất cả phải trông cậy vào HĐGMVN và các tôn giáo để họ đưa
ra những giải pháp cụ thể để cùng nhau cứu con thuyền khỏi bị chìm. Đó chính là
điều mà Đảng CSVN phải suy nghĩ lại trước khi quá trễ.
KẾT LUẬN.
Sau hết, thực tế cho thấy luật pháp do Đảng CS viết ra đã
không nhắm vào mục tiêu lớn nhất của luật pháp là bảo vệ hạnh phúc cho toàn thể
xã hội, và bảo vệ hạnh phúc cho cá nhân mỗi ngưới dân Việt. Muốn có hạnh phúc
con người phải có tự do,muốn có tự do phải có chính quyền. Muốn có chính quyền
thì mọi người phải cúng nhau đi đến một Giao Ước và thỏa thuận với nhau để cùng
nhau viết lên một KHẾ ƯỚC XÃ HỘ (social con tract) mà tất cả xã hội và quốc gia
đều phải có để đi đến SỰ ĐỒNG THUẬN và ĐOÀN KẾT QUỐC GIA, cũng như thành lập
chính quyền của dân,do dân và vì dân. Đây mới là chính quyền hiến định
(constitutional government) hay chính quyền của luật pháp (government of law),
hay là nhà nước pháp quyền theo ngôn ngữ của Đảng CSVN (rules of law).
Những nhận định và góp ý của HĐGMVN, và các tôn giáo cũng
như của 72 trí thức và nhân sĩ trong hàng ngũ CS trong nước rất sáng tỏ và cần
thiết để làm nền móng cho một khế ước xã hội hay hiến pháp quốc gia để thành
lập nên nhà nước pháp quyền đúng như Đảng CSVN đã nêu ra. Nhưng nhà nước pháp
quyền là gi? Nhà nước pháp quyền cũng chính là chính quyền của luật pháp hay
chính quyền hiến định. Nhưng nếu Đảng CSVN vẫn tiếp tục duy trì và bảo vệ Điều
4 và Điều 57 Hiến Pháp 1992 thì họ không thể và không bao giờ có thể xây dựng
được nhà nước pháp quyền được. Họ không thể bắt cá hai tay. Họ chỉ có thê có
một trong hai thứ đó. Hoặc muốn có nhà nước pháp quyền thì không thể độc quyền
lãnh đạo. Muốn độc quyền lãnh đạo thì không thể có nhà nước pháp quyền. Đây là
nhà nước của luật pháp nên tất cả thành viên xã hội phải tuân theo luật pháp,
và không ai được quyền đứng trên luật pháp quốc gia được như Đảng CSVN đã làm
từ 70 năm qua. Khi Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện nhà nước và xã hội thì
nhà nước đó là của Đảng, do Đảng và vì Đảng. Không thể nào coi đó là chính
quyền của dân, do dân và vì dân cho được. Thứ luật pháp này đã đến lúc pải được
thay thế toàn diện và triệt để bằng hiến pháp và luật pháp của quốc gia do toàn
dân viết ra để xây dựng chính quyền hiến định của dân, do dân và vì dân.
Kinh nhiệm lịch sử suốt 800 năm đứng lên tranh đấu
(1215-2013) của những người Kito Giáo tại Anh và tại Mỹ với các vua chúa của họ
để buộc các vua phải chấp nhận quyền của con người, và quyền viết luật cho quốc
gia của Nghi Viện Anh, và quyền viết luật của toàn dân như tại Hoa Kỳ. Khi luật
pháp đã viiết ra để thành lập chính quyền thì tất cả mọi người phải tuân theo
luật pháp, kể cả các vua cũng phải tuân theo luật pháp như các công dân khác.
Với những cuộc cách mạng pháp lý này, những người Kito Giáo tại Anh và tại Mỹ
đã khai sinh ra chế độ CÔNG HÒA và DÂN CHỦ cho quốc gia của họ và cho cả thế
giới hôm nay. Nếu các vua chúa đã không được phép đứng trên luật pháp thì tại
sao Đảng CSVN đã đứng trên luật pháp từ 70 năm qua và bây giờ vẫn muốn tiếp tục
đứng trên luật pháp, và vẫn muốn tiếp tục cai tri toàn dân VN bằng bạo lực và
mũi súng,thay vì cai tri dân bằng luật pháp quốc gia để có nhà nước pháp quyến
hay chính quyền của luật pháp hay chính quyền hiến định ? Đảng CSVN đừng quên
rằng chính vì cai trị đất nước bằng bạo lực và mũi súng thuần túy nên đã làm
cho cách mạng CS chỉ thấy tội ác và bất lực cũng như đang làm cho con thuyền
quốc gia sắp chìm đắm mà không làm sao cứu vớt được, nếu ngựa quen đường cũ..
Muốn cho con thuyền không bị đắm thì phải thay đổi chuyển hóa làm sao để xây
dựng lại trật tự hiến pháp,trật tự chính trị và trật tự xã hội bằng những luật
lệ thật công minh và nghiêm minh.
Các nhà xây dựng dân chủ thường rất ưu tư tới…luật pháp
là gi ? Phải chăng là hàng loạt những luật lệ (rules) hay những nguyên tắc,
tiêu chuẩn (principles and standarts) được soạn ra để hướng dẫn con người trong
đời sốn xã hội—sống và hành xử như thế nào cho hợp tình, hợp lý, hợp với Đạo
Lý,hợp với hiến pháp và luật pháp quốc gia. Như thế vừa được lòng Trời và cũng
hợp với lòng người. Tất cả người dân đều có quyền, nhưng phải có bổn phận cũng
như trách vụ đạo đức và trách nhiệm xã hội. Người dân còn phải có trách nhiệm,
mà Đảng CSVN lại không có bổn phận và trách nhiệm với luật pháp và đạo đức quốc
gia hay sao? Luật pháp đề ra những điều con người có thể lám, và những điều
không được phép làm. Luật pháp đề ra để bảo vệ quyền lợi của cá nhân, và đồng
thời phải bảo vệ quyền lợi chung của xã hội.
Theo các nhà dân chủ Hoa Kỳ, việc lập hiến và lập pháp nhắm vào các điểm
sau đây;
1- Trật tự xã hội phải được duy trì để bảo đảm cho sự
tiến bộ.
2- Xã hội được bảo vệ để không cho phép những cá nhân hay
đảng phái gây ra những tai hại cho xã hội.
3- An sinh phúc lợi và công lý phải là trọnng tâm hàng
đầu của lập hiến và lập pháp.
Chức năng của luật pháp phải tuân hành tối thiểu hai
nguyên tắc.
a. Trên hết là công bằng xã hội là quan trọng nhất. Nếu
có những vi phạm lầm lẫn thì luật buộc phải có sự đền bù xứng đáng cho người bị
thiệt hai.
b. Hiến pháp và luật phải áp dụng cho tất cả mọi người,
mà không có trường hợp ngoại lệ nào, dưới sự bảo đảm của luật pháp—tất cả mọi
người đều bình đẳng với sự bảo vệ của luật pháp (equal legal protection)—nên
không có vị vua nào hay đảng phái nào được phép đứng trên luật pháo quốc gia.
Đã đến lúc Đảng CSVN phải đi đến sự lựa chọn. Muốn xây
dựng nhà nước pháp quyền thì phải bỏ Điều 4 và Điều 57 trong Hiến pháp 1992, và
bỏ luôn chủ nghĩa Mác-Lê đúng như HĐGMVN đã khuyên họ, tức từ bỏ cai trị toàn
dân thuần túy bằng bạo lực và mũi súng để chấm dứt tội ác và bất lực đang làm
cho con thuyền VN sắp bị đắm mà Đảng CSVN không thể tự mình cứu được con
thuyền. Đảng CSVN không thể tiếp tục coi HĐGMVN và các tôn giáo là kẻ thù được
nữa; bởi vì đó là những vị cứu tinh của con thuyền sắp bi đắm. Hãy cùng toàn
dân VN đi đến những thỏa thuận để cùng nhau viết lên một KHẾ ƯỚC XÃ HỘI ĐÚNG
NGHĨA NHẤT với những già trị của đạo đức và công lý. Đó là giải pháp duy nhất
và hữu hiệu nhất để cứu con thuyền VN khỏi bị đắm
Ngược lại, nếu Đảng CSVN vẫn ngoan cố để duy trì và bảo
vệ quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của họ cho bằng được thì nhà nước pháp
quyền mà họ muốn xây dựng sẽ không bao giờ có được. Nếu họ tiếp tục cai trị
bằng bạo lực và mũi súng thì con thuyền sẽ chìm nhanh hơn. Tất cả mọi người sẽ
chết và Đảng CSVN cũng không thể nào thoát chết được. Đó là cái giá mà chắc
chắn Đảng CSVN phải trả cho sự chọn lựa của họ. Nếu họ không sáng suốt trong
lựa chọn của họ. Và tất cả chúng ta hãy cầu xin hồn thiêng sông núi Đất Việt và
Thượng Đế Chí Tôn soi sáng tâm hồn và trí tuệ cho những con người đang nằm
quyền hành quốc gia tại VN để họ có thể thấy được đâu là sự thật và lẽ phải, để
can đảm và sáng suốt như Marx-Engels đã thú nhận những sai lầm của họ với chủ
trương bạo lực các mạng khi về già. Hãy cởi chiếc áo CS đẫm máu anh em, đồng
bào và vứt nó ngay đi, vì chiếc áo đó chỉ là hiện thân của bạo lực mù quáng đã
làm cho con thuyền VN lênh đênh trên sóng dữ từ 70 năm qua, và bây giờ thì con
thuyền sắp chìm xuống biển sâu. Hãy tự cứu lấy chính mình và cứu con thuyền VN
khốn khổ trước khi quá trễ. Nếu cương quyết giữ Điều 4 và Điều 57 của HP 1992
có nghĩa là vẫn muốn bảo vệ dục vọng quyền hành của những chiếc áo đẫm máu anh
em và đồng bào của mình; bởi vì ‘ĐỘC QUYỀN LÀNH ĐẠO CŨNG CHỈ CÓ NGHĨA LÀ VẪN
MUỐN ĐỨNG TRÊN LUẬT PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC TIẾN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG DẪN TỚI TỘI ÁC VÀ
BẤT LỰC mà thôi.
Cây cách mạng cs chẳng phải cây lành, nên sinh ra toàn
trái đắng. Và đúng như từ hơn 2000 năm trước Chúa Jesus đã nói: “Bây giờ lưỡi
rìu đã để dưới gốc cây. Những cây nào không sinh ra quả ngọt sẽ bị đốn và quăng
vào lửa “ ( Matthew 3:10)
Nguyễn Anh Tuấn- người
giáo dân Hải ngoại
Hawaii mùa hè 2013
No comments:
Post a Comment