10:08:am
24/06/13
Sự
ra đi của Bác sĩ Nguyễn Tường Bách ngày 11/5/2013 tại Fountain Valley , Orange
County, California, hưởng thọ 97 tuổi, đã hoàn toàn kết thúc cuộc chiến tranh
Quốc-Cộng 1945…(về phe Quốc Gia). Phe Quốc Gia ở đây được định nghĩa là những
người chống lại lý thuyết Mác Xít, chống lại Cộng sản. Phe Cộng sản thì vẫn còn
một người thuộc thành phần lãnh đạo từ thời 1945 là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cũng nên biết thêm, cụ Bách là cộng tác viên thân cận của nhóm Tự Lực Văn Đoàn
từ ngày nhóm này ra số báo Phong Hóa đầu tiên (thời gian này nhóm chưa lấy tên
là TLVĐ).
Về
quân sự cụ Võ Nguyên Giáp đi trước cụ Bách. Vào năm 1944 trong khi cụ Bách mới
tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội thì theo tài liệu của Cộng sản, vào ngày
22-12-1944 tại Cao Bằng cụ Giáp thành lập Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân
(tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam) tại chiến khu Trần Hưng Đạo, lúc đó
có 34 người được trang bị 2 súng ngắn, 17 súng trường, 14 súng kíp và duy nhất
một súng máy. Nhưng không có tài liệu hay chứng cớ nào cho thấy sau đó lực
lượng vũ trang vài chục người đó được phát triển nhiều hơn. Lịch Sử đảng Cộng
sản cũng thừa nhận sau khi Nhật thất trận, các tù nhân chính trị được chính phủ
Trần Trọng Kim trả tự do, trong đó có cả những tù nhân cộng sản, thì số lượng
đảng viên cộng sản chỉ khoảng 5 ngàn người. Đấy là con số do cộng sản công bố;
con số thực có lẽ ít hơn nhiều.
Phe
Quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đại Việt có lẽ số đảng viên cũng không
nhiều hơn. Lúc đó Bác sĩ Nguyễn tường Bách sáng lập lực lượng Quốc Gia Thanh
Niên Đoàn, đồng thời chỉ huy lực lượng quân sự của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Bác
sĩ Bách cũng thú nhận số đảng viên và lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc Dân
Đảng cũng không nhiều và so với lực lượng của cộng sản có phần yếu hơn (xem hồi
ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua và tập truyện Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn của Ng. Tường
Bách).
Do
tình cờ lịch sử, cả hai cụ Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Tường Bách đều có một số
điểm tương đồng. Trước tiên, cả hai cụ cùng ở vị trí lãnh đạo cao cấp của hai
lực lượng chống đối nhau thời 1945: Cụ Bách ở Việt Quốc, cụ Giáp ở Việt Minh,
một tổ chức của Cộng Sản dựng lên để thu hút thành phần yêu nước cũng tương tự
như tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau này được Cộng Sản Miền Bắc lập nên
năm 1960, trá hình là một tổ chức yêu nước của nhân dân miền Nam. Cả hai cụ đều
là nhân vật lãnh đạo lực lượng vũ trang của tổ chức của mình. Và thật lạ lùng,
cả hai cụ cùng trường thọ và là hai vị cuối cùng thuộc giới lãnh đạo cao cấp
trong cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Bác sĩ Bách vừa mãn phần ở tuổi 97; cụ Võ
Nguyên Giáp vẫn còn sống và đã 103 tuổi.
Cả
hai cụ cùng là trí thức tiểu tư sản. Cụ Võ Nguyên Giáp xuất thân cử nhân luật
và là giáo sư sử tại trường trung học Thăng Long, một trường trung học nổi
tiếng vì có nhiều giáo sư nổi tiếng nhất Hà Nội thập niên 1930. Trong thời gian
đó cụ Nguyễn Tường Bách học đại học Y khoa Hà Nội và tốt nghiệp Bác sĩ năm
1944, ở tuổi 28, cùng lớp với Giáo Sư Thạc Sỹ Y Khoa Trần Đình Đệ, cựu Khoa
trưởng Đại học Y khoa miền Nam. Cụ Võ Nguyên Giáp lớn hơn Bác sĩ Bách 5 tuổi
nên hoạt động chính trị có lẽ trước Bác sĩ Bách cũng khoảng từng ấy năm. Vào
thập niên 1930 – 1940 thanh niên Việt Nam hoạt động trong các tổ chức bí mật
chống Pháp ở tuổi rất trẻ. Trong hồi ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua ( hồi ký
VNMTKQ) ở trang 36, cụ Bách cho biết tinh thần cách mạng chống Pháp của học
sinh trường Bưởi như sau, “một bạn học năm thứ ba (ghi chú của người viết, tức
là mới lớp 8) có đến tìm tôi (ghi chú của người viết, lúc đó cụ Bách mới 13
tuổi và học lớp 6), và đưa một tờ truyền đơn ký tên là “Thanh Niên Ái Quốc,” rủ
tôi vào một tiểu tổ lúc đó thành lập ngay trong trường. Tôi ngỏ ý tán thành.”
Sau này, Bác sĩ Bách khởi đầu hoạt động chính trị từ thời còn là sinh viên y
khoa trong đảng Đại Việt Dân Chính do nhà văn Nhất Linh là anh ông thành lập
khoảng 1939.
Cả
cụ Võ Nguyên Giáp lẫn Bác sĩ Bách đều không được huấn luyện quân sự mà đều được
tổ chức của mình trao nhiệm vụ lãnh đạo quân sự. Điều đó cho thấy lực lượng
quân sự của cả hai bên lúc đó đều không đủ mạnh để đương đầu với thực dân Pháp.
Cụ Bách từng cười mà nói với tôi, “Chú là bác sĩ mà anh em giao cho chỉ huy
quân sự thì đủ hiểu là lực lượng mình không mạnh!”
Cả
hai cụ đều là đại biểu trong Quốc Hội khóa 1 năm 1946. Cụ Giáp là đại biểu của
Cộng sản (núp dưới danh xưng Việt Minh). Bác sĩ Bách là đại biểu của Việt Quốc.
Trong
chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng cụ Giáp giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ. Bác sĩ Bách
tuy không tham gia chính phủ Liên Hiệp nhưng khi tôi hỏi vấn đề này thì Bác Sĩ
Bách cho biết cụ đã có hai người anh tham gia chính phủ Liên Hiệp với tư cách
Bộ Trưởng rồi, đó là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là Bộ Trưởng Ngoại Giao
và nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long làm Bộ Trưởng Kinh Tế nên đảng Việt Quốc
trao cho cụ trọng trách tổ chức nội bộ đảng. Nhưng cụ cũng cho biết trong công
tác chính phủ hàng ngày cụ cũng tham gia với tư cách đại biểu của Việt Quốc, do
đó cụ cũng nhiều lần trực tiếp gặp cụ Hồ Chí Minh và cụ Võ Nguyên Giáp cũng như
các thành viên khác của Cộng Sản trong Quốc Hội và Chính Phủ.
Cả
hai cụ đều là những nhân vật lãnh đạo cuối cùng của tổ chức của mình còn sống
sót từ thời 1945 cho tới đầu thế kỷ 21. Bác sĩ Bách tuy khoảng hai năm cuối sức
khỏe đã yếu, không đi lại được, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, vẫn còn trả
lời những câu hỏi liên quan tới các hoạt động văn hóa của TLVĐ và các hoạt động
vũ trang chống Cộng thời 1945 cho tới lúc cụ và lực lượng Việt Quốc thất bại
phải bôn tẩu sang Trung Quốc năm 1946.
Trong
hai, ba tháng cuối trước khi qua đời Bác sĩ Bách tuy còn tỉnh táo nhưng đã kém
trí nhớ; cụ quên cả tên những người cháu tới thăm cụ, ngay cả tôi cụ cũng không
nhớ tên, chỉ biết là cháu gọi bằng chú. Thời gian này chỉ kéo dài vài tháng và
Bác sĩ Bách không phải trải qua giai đoạn dùng dụng cụ trợ sinh (life support)
trước khi qua đời. Như thế Bác sĩ Bách đã có một sự ra đi mau mắn của người
già, một điều mà những người già đều mơ ước. Đây là một may mắn cho cụ.
Cụ
Võ Nguyên Giáp không may mắn bằng. Tuy “còn sống” nhưng nghe nói từ lâu cụ Giáp
đã không còn biết gì hết, phải dùng dụng cụ trợ sinh (life support).
Là
em út trong gia đình Nguyễn Tường, cụ Nguyễn Tường Bách đã là một trong những
cây bút trẻ nhất góp mặt trong những số báo Phong Hóa đầu tiên của Tự Lực Văn
Đoàn. Lúc đó cụ mới 17 tuổi, chưa xong trung học. Tôi hỏi cụ, “Lúc đó chú tới
tòa báo với tư cách một chú em nhỏ tới chơi xem các anh của chú làm báo hay chú
tới với tính cách ngang hàng của người cộng tác?” Cụ nói, “Tuy lúc đó chú nhỏ,
nhưng chú tới với tính cách người cộng tác; chú viết mà.”
Tuy
sau này khi từ giã gia đình ra đi làm cách mạng, Bác sĩ Bách ở hoàn cảnh một
gia đình khá giả như chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt hay Đôi Bạn, hai cuốn tiểu
thuyết của Nhất Linh, nhưng khởi đầu cụ Bách sinh ra trong một gia đình nghèo.
Có thể nói là cực nghèo (xem hồi ký về Gia Đình Nguyễn Tường của cụ Nguyễn Thị
Thế, em gái cụ Nhất Linh). Tuy ông nội cụ làm tri huyện (tương đương quận
trưởng hay chủ tịch huyện) Cẩm Giàng, nhưng qua đời đã lâu và gia đình trở nên
túng quẩn. Bố cụ Bách lại hầu như cả đời không làm gì để nuôi gia đình. Mãi gần
cuối đời bố cụ mới đi làm thông ngôn tòa sứ bên Lào. Theo gia phả bên họ Lê,
tức bên họ mẹ các anh em Nguyễn Tường thì “ông Nhu làm thông ngôn ngạch tòa
Công sứ”. “Ông Nhu” ở đây chính là bố của các cụ Nguyễn Tường. Bố các cụ không
phải làm người bẻ ghi (người gác) ga xe lửa Cẩm Giàng như một số sách sau 1975
viết. Hồi ký của cụ bà Thế ở trang 48 cho biết bố các cụ làm thông ngôn cho ông
Công Sứ Hải Tường một thời gian. Sau đó ông ta được đổi sang làm Công Sứ tỉnh
Sầm Nứa bên Lào. Năm 1917, tình cờ gặp lại ông Công Sứ đó ở Hà Nội, ông Công Sứ
mời bố các cụ sang làm thông ngôn cho ông ở bên Lào và ngày 31-8-1917 bố các cụ
lên đường (hồi ký của cụ Thế trang 59). Nhưng bố các cụ chỉ làm được tám tháng
thì qua đời vì bạo bệnh.
Kể
từ đó gia đình 9 người gồm mẹ, 7 anh chị em và bà nội chỉ trông vào việc buôn
gạo của mẹ cụ. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 8, cụ Bách viết, “Cảnh nghèo nàn
thiếu thốn trong gia đình, dù mẹ tôi và bà tôi cố gắng xoay sở, cũng chưa giải
quyết được vì đông con.” Trang 30, cụ lại viết về việc người con gái duy
nhất trong gia đình, là chị Thế của cụ, không được đi học vì nhà nghèo, “Trong
lúc gia đình khó khăn chị không được đi học nữa và về nhà giúp mẹ trong việc
buôn bán…Chị cần cù đảm đương mọi việc trong gia đình, đã giúp đỡ không ít để
các anh em yên tâm học hành, làm việc.”
Cảnh
nghèo khiến nhiều năm gia đình Nguyễn tường không ăn tết. Trang 57 của hồi ký
cụ Thế ghi, “Tết năm nay nhà không gói bánh chưng. Bà ngoại thấy tôi hỏi nhà
cháu đã gói bánh chưa, tôi đáp thưa bà năm nay mợ cháu không có tiền nên không
gói ạ.” Chẳng những không có tiền ăn tết mà mẹ các cụ có năm còn phải trốn
nợ vào ngày cuối năm. Sau này vì lý do tuyên truyền chính trị, cộng sản lên án
Tự Lực Văn Đoàn có cái nhìn xã hội của những kẻ thuộc giai tầng “bên trên” nhìn
xuống.
Thực
ra không phải vậy. Quan niệm xã hội của anh em Nguyễn Tường trong Tự Lực Văn
Đoàn đã hình thành từ cái huyện Cẩm Giàng nghèo khổ, cực kỳ nghèo khổ mà gia
đình Mẹ Lê trong truyện của Thạch Lam là điển hình và gia đình các nhà văn này
cũng không khá hơn các gia đình nghèo trong phố huyện, nơi theo sự kể lại trong
gia đình và trong các hồi ký, chỉ có mấy gia đình giầu là gia đình mấy “chú
Tầu” chủ tiệm trên phố chính của huyện. Có thể nói vào thời đó, gần như cả
huyện Cẩm Giàng đều nghèo như Nhà Mẹ Lê cho nên ngoài anh em nhà Nguyễn Tường
không gia đình nào có con ra khỏi phố huyện sau khi “tốt nghiệp” sơ cấp (ba năm
đầu của bậc tiểu học) để tiếp tục học cao hơn. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 9,
cụ Bách mô tả cái nghèo của dân huyện Cẩm Giàng, ” chung quanh, cảnh nghèo khổ,
tiêu điều trong các gian nhà lụp xụp, cảnh chân lấm tay bùn của nông dân cặm
cụi trên đồng ruộng lầm lội; những người chỉ có một cái khố che thân, cảnh chợ
phiên lèo tèo…tất cả những cái đó đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi. Về sau đã
thúc dục chúng tôi muốn viết lên, muốn làm một cái gì để thay đổi tình trạng
đó.” Bà chị gái của cụ, bà Thế, ở trang 53 hồi ký của riêng mình cũng ghi,
“Xóm chợ gần nhà tôi toàn là người làm ruộng quê ở Hà Nam, Phủ Lý vì bị lụt lội
không đủ sống nên đưa nhau đến đây. Đa số gia đình làm nghề đi kéo xe hoặc làm
mướn như nhà bác Đối, đánh cá vớt tép như nhà bác Lê và còn nổi tiếng nghèo vì
quá đông con.” Truyện ngắn Nhà Bác Lê nổi tiếng của Thạch Lam chính là dựa trên
chuyện thực của gia đình bác Lê này. Và gia đình Nguyễn Tường cũng không khá
hơn những gia đình trong xóm. Trong mấy tạp chí địa phương của Cẩm Giàng ngày
nay, người dân địa phương cũng xác nhận cha ông họ thời trước 1945 thật là
nghèo, không có tiền gửi con đi học ở bên ngoài phố huyện, nên toàn huyện không
có người đỗ đạt, ngoại trừ mấy anh em nhà Nguyễn Tường. Cơ ngơi gọi là “Trang
trại Nguyễn Tường, TLVĐ” tại Cẩm Giàng được tạo lập sau này, sau khi mấy anh em
nhà Nguyễn Tường đã thành đạt ở Hà Nội, giúp mẹ trở về Cẩm Giàng lập trại để an
dưỡng tuổi già (xem hồi ký về gia đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế).
Anh
em nhà Nguyễn tường sống trong hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội. Ở trang 54
cuốn hồi ký, cụ bà Thế viết tiếp, “Những năm mất mùa đói kém, xe kéo chẳng ai
đi những gia đình này bữa cơm bữa cháo. Nhà tôi chưa phải ăn thiếu nhưng cũng
chả giầu gì hơn họ.” Từ hoàn cảnh gần như đáy cùng xã hội đó, anh em Nguyễn
Tường của cụ đã vươn lên qua sự thông minh và quyết tâm, và nhất là quyết tâm
của một bà mẹ tuyệt vời. Trong hồi ký VNMTKQ, ở trang 30-31, cụ Bách vừa mô tả
cái nghèo của gia đình vừa mô tả sự quyết tâm nuôi con ăn học của mẹ cụ qua đôi
câu “cãi nhau” giữa mẹ cụ và Thạch Lam, ““Lâu nay không biết mày làm gì? Nhà
đương túng bấn mà sao không mang được một đồng về? – Có lẽ vì anh bỏ trường rồi
chưa làm việc gì. So với các anh lớn, có thể anh không làm cho mẹ vừa lòng lắm.
Hai mẹ con cãi cọ một lúc, rồi không biết sao cả hai đều khóc. Ngạc nhiên,
chúng tôi chạy ra ngoài. -Con xin lỗi mẹ, con sẽ đi làm.” Anh vừa nói vừa gạt
nước mắt, trông cũng đáng thương. Chắc anh nghĩ rằng mình cũng chưa làm gì giúp
mẹ. -Ừ thì mẹ cũng tha lỗi cho con. Nếu muốn đi học, thì dù thiếu thốn, cả nhà
cũng sẽ giúp.”"
Tất
cả mấy anh em của cụ từ những năm đầu đi học đã học ở ngôi trường duy nhất, chỉ
có bậc sơ cấp (3 lớp đầu bậc tiểu học) trong cái huyện Cẩm Giàng cực kỳ nghèo
khổ đó. Như đã kể, dân huyện quá nghèo, không ai đủ điều kiện cho con cái theo
đuổi sách đèn ở mức vượt khỏi lũy tre làng. Chỉ có mấy anh em cụ, nhờ quyết tâm
của bà mẹ, là thoát khỏi sau bậc tiểu học để lên Hà Nội tiếp tục theo đuổi sách
đèn. Mẹ các cụ, sau khi chồng mất, một mình phải lo kiếm tiền nuôi gia đình
tổng cộng 9 miệng ăn kể cả mẹ chồng. Để vượt qua nhiệm vụ khó khăn đó, mẹ các
cụ rất cương quyết, cho các con bỏ việc mặc áo tang cho hết sầu thảm, không
khóc lóc để có tinh thần mà làm ăn. Ở trang 52 hồi ký cụ Thế, có ghi: ” Em Bẩy
lúc đó mới có ba tuổi bà tôi cũng bắt đội khăn sô, tôi thì đầu chẳng có tóc
cũng phải chít khăn như người lớn, quần may bằng vải chàm trông y mán vậy. Mẹ
tôi bắt bỏ hết bảo chúng nó còn bé bắt để tang chi trông sầu thảm. Bà nội khóc
thì mẹ tôi nói người chết đã yên phận rồi, bây giờ bà phải thương các cháu lo
sao cho khỏi chết đói, để yên con phải lo buôn bán chứ cứ ngồi khóc hoài sao,
người chết cũng chả sống lại được mà người sống thì chết đói.”
Mẹ
các cụ là người bà mà thế hệ chúng tôi luôn ngưỡng mộ là một phụ nữ rất cứng
rắn và cương quyết trong mục tiêu theo đuổi, nhưng lại rất dịu dàng với các con
cháu. Mục tiêu theo đuổi cả đời của cụ là sự học của các con trai. Khi cụ mang
cốt của phu quân từ bên Lào về chôn tại Cẩm Giàng, cụ mẹ chồng nghĩ phải tìm
ngôi đất nào cho phát phú ngay chứ nghèo quá đi thôi (Hồi ký cụ Thế trang 64).
Nhưng cũng chính trang hồi ký này ghi, “Thầy địa lý cho mời mẹ tôi tới bàn cãi
bà muốn phát phú thì con cháu học dốt, hay quý và thọ thì nghèo, bà tính sao.
Mẹ tôi nói ngay quý và thọ thôi chứ phú trọc mà làm gì.” Chẳng biết có phải nhờ
ông thầy địa lý người Tầu đặt mộ hay không mà sau này mấy anh em ông đều phát
Quí như độc giả đều biết (nhưng không phát Phú). Mặc dù nghèo gần như không đủ
ăn, nhưng với chuyện học của các con thì cụ hết lòng, kể cả phải cho tiền mua
sách từ bên Pháp về cho các con học. Và may mắn thay các con cụ đều học giỏi,
người nào cũng từng nhiều lần đứng nhất lớp, nhất trường, hay nhất cuộc thi và
cũng từng thi nhẩy hai lớp ở bậc trung học, rút ngắn được khá nhiều thời gian
và tiền bạc. Trang 62 hồi ký của cụ Thế ghi, “Các anh tức lắm về bàn với mẹ
tôi gửi mua bên Pháp đủ các thứ sách đem về học gấp. Năm sau đổi tuổi đi thi
đậu thành ra đỡ được hai năm, đỡ tốn bao nhiêu công lao và tiền bạc. “
Mấy
anh em của cụ rất quyết tâm và thông minh nên thường chiếm giải nhất hay học
thi nhẩy lớp. Từ anh Cả, hầu như cụ nào cũng học nhẩy hai lớp (hồi ký cụ Thế
trang 62). Trang 62 của cuốn hồi ký cụ Thế cũng ghi muốn học vượt lớp thì phải
đổi giấy khai sinh cho thêm tuổi. Từ hồi bé, trong gia đình, nhiều lần tôi đã
nghe chuyện tất cả các chú bác và bố tôi đều học giỏi nên phải khai thêm tuổi
để đi thi, tôi thường thắc mắc làm thế nào để các anh em của bố tôi đổi tuổi?
Mới đây, đọc kỹ trong hồi ký của cô tôi, ở trang 72, cụ Thế đã ghi, “Thỉnh
thoảng chúng tôi lại sang chơi bên ấp Phiên Đình là ấp có ông lý trưởng đã đưa
cả triện lý trưởng cho mẹ tôi muốn đóng vào đâu thì đóng. Chắc hẳn ông không
thể ngờ được cái triện đó đã giúp cho mấy nhà văn nổi tiếng trong văn học sử
sau này.” Hóa ra, để đổi tên, đổi tuổi của mấy anh em nhà Nguyễn Tường, bà
nội tôi cứ lấy cái triện của ông lý trưởng ấp Phiên Đình, huyện Cẩm Giàng mà
“ịn” vào giấy khai sinh mới do chính cụ làm lại là xong(?) Cụ Bách cũng nhẩy
hai lớp, và thường được giải nhất cuối năm. Phần thưởng mang về phải chở bằng xe
kéo. Nghe vậy anh em chúng tôi thấy thực dân Pháp tuy thế mà rất chuộng sự học,
cho dù là sự học của dân bản xứ.
Việc
học của cụ Bách thật buồn cười, và sự đối xử của mẹ cụ cùng các anh cụ đối với
việc học của cụ cũng rất thoáng; có thể nói là quá thoáng so với cả tiêu chuẩn
giáo dục gia đình bây giờ. Theo dõi việc học của cụ Bách ở bậc trung học thôi
cũng giúp hiểu thêm về sinh hoạt của Tự Lực Văn Đoàn ngay từ buổi đầu ra báo
Phong Hóa. Năm 1929 cụ Bách thi vào trường Bưởi và đỗ thứ 28 trong khi nhà trường
chỉ lấy có 130 người trong số rất đông học sinh dự thi. Cụ đỗ cao nhờ bài Pháp
Văn (hồi ký VNMTKQ trang 33 và 35).
Nhưng
ngay trong ngày khai trường, cụ Bách đã cảm thấy một bầu không khí ngột ngạt,
khó thở, mà cụ cho là bầu không khí thực dân. Ở trang 35 cụ viết, “Một bầu
không khí thực dân…tôi nghĩ. Tôi liên tưởng đến những truyền đơn, báo bí mật và
những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp…Từ ngày ấy, đối với nhà trường, tự
nhiên tôi đã không có thiện cảm.” Cuối cùng, sau khi mới lên năm thứ hai,
tương đương lớp 7 ngày nay, cụ bỏ trường về Cẩm Giàng tự học thi Tú Tài Tây. Ở
trang 41 hồi ký VNMTKQ cụ viết, “1931. Suy nghĩ vài tháng rồi, tôi lấy một
quyết định mạo hiểm: bỏ học về nhà. Tôi sợ nói ra, mẹ tôi và các anh chị sẽ phê
bình tới tấp và sẽ ngăn cản. Vì có ai dại mà bỏ đi một trường học tốt như vậy,
không dễ thi vào. Và nếu tự học thì có làm nổi không, bằng Tú Tài đâu phải dễ
lấy; mà tôi lúc này mới lên năm thứ hai.”
Gia
đình cụ rất phóng khoáng, ngay cả trong việc học của con cái là việc quan trọng
nhất trong mọi gia đình. Trang 44, cụ ghi nhận, “Khác hẳn với dự đoán của tôi,
các anh tôi chẳng ai cho là việc đáng bàn, còn mẹ tôi sau khi do dự, cũng bằng
lòng: “-Ừ thì mày về nhà mà học lấy. Nhưng phải chăm mới được.”
Năm
1933 cụ thi Tú Tài Tây phần thứ I và trượt. Tưởng cũng nên nhắc lại, năm 1929
cụ Bách mới thi đỗ vào năm thứ nhất trường Trung học Bưởi, tức là vào lớp 6.
Năm 1931, ở năm lớp 7 cụ xin bỏ học để về Cẩm Giàng tự học. Thế mà năm 1933,
tức là đáng lẽ mới hết lớp 9 (đệ tứ niên trường Bưởi) cụ đã đi thi Tú Tài Tây
phần thứ nhất, tức là vượt 2 lớp (10, 11). Các anh em khác đều học vượt hai lớp
như cụ. Mặc dù thi trượt nhưng cụ cũng đã đỗ phần thi viết, tức là đỗ các môn
chính. Và cụ chỉ bị trượt vì vào vấn đáp môn Anh Văn. Anh văn cụ tự học nên
phần phát âm sai hoàn toàn. Cũng trang 57 cụ kể, “gặp giám khảo hắc búa, bắt
tôi đọc một một đoạn truyện “David Copperfield” của Dickens. Tôi gân cổ đọc,
còn ông chỉ ngồi cười. Sau tôi mới hiểu, vì ông nghe chẳng hiểu gì hết với cái
tiếng Anh lạ tại của tôi. Tất nhiên là trượt, về nhà học lại.” Đọc tới đây tôi
lại nhớ tới kinh nghiệm của chính tôi. Năm 1962, tôi học đệ tam Hồ Ngọc Cẩn,
Gia Định, thi nhẩy tú tài I, cũng đỗ thi viết, rồi vào vấn đáp cũng trượt vì
vấn đáp tiếng Anh. Ông giám khảo nói tiếng Anh với tôi rằng, “tiếng Anh của anh
khiến tôi thất vọng”. Như vậy chế độ thi cử của Pháp tuy khó về nội dung nhưng
lại rất mềm dẻo về thủ tục, học sinh muốn thi là nộp đơn thi, không cần học bạ
gì cả. Nhưng tại sao lại có vấn đề giới hạn tuổi đi thi thì tôi chưa tìm hiểu
được. Tới thời Việt Nam Cộng Hòa thì thủ tục có khó hơn một chút, là muốn thi
Tú Tài I thì phải có giấy đã học lớp 11 của một trường tư hay của bất cứ một tư
nhân nào có bằng cử nhân chứng nhận. Việc chứng nhận chỉ cần ký tên rồi mang
công chứng chữ ký, thủ tục không quá vài phút. Chế độ thi cử hiện nay thủ tục
không được dễ như vậy, chặt chẽ hơn, nhưng trình độ học sinh lại kém hơn nhiều.
Một
điều đáng ghi nhận là chính cái năm thi trượt Tú Tài phần I (hè 1933), tức là
đáng lẽ mới học lớp 9, cụ Bách đã bắt đầu tham gia viết báo, làm thơ trên tờ
Phong Hóa. Ở trang 57 hồi ký VNMTKQ, cụ viết: “Năm đó, thi bằng Tú Tài phần thứ
nhất, tôi đã “trượt vỏ chuối,” tuy đã cuốc bở hơi tai trước kỳ thi.” Ở trang
58, cụ Bách viết tiếp, “Thế là lại phải cuốc một năm nữa…Cũng may, năm ấy, tôi
bắt đầu bước vào nghề viết báo, làm thơ, nên thì giờ cũng dễ trôi qua.”
Năm
sau, 1934 cụ mới đỗ Tú Tài Tây phần I nhờ ông giám khảo thi vấn đáp tiếng Anh
không quá khó. Như vậy sau hai năm học trong trường và ba năm tự học vất vả mới
đỗ được Tú Tài Tây phần thứ I, cụ thấy không tự học được nữa mà phải vào
trường. Và cụ không trở lại trường Bưởi mà xin vào trường tây Albert Sarraut. Ở
trang 55 hồi ký VNMTKQ cụ kể: “Một cách chật vật, tôi cũng qua được phần thứ
nhất bằng Tú Tài Tây…Nhưng phải đối diện với phần thứ hai làm sao đây? Theo ý
kiến của các bạn, muốn ăn chắc, nên xin vào học trong trường Trung Học Albert
Sarraut.” Ông viết tiếp, “Mùi thực dân của trường này tất sẽ nặng nề, nhưng
đành phải chịu.”
Ông
giỏi triết và học thi Tú Tài Triết. Trang 59 ông kể, “Vì trước kia, tôi đã
ưa đọc những sách triết học, nên được giáo sư dạy môn triết mến, những tác văn
của tôi thường thường ông chỉ sửa chữa rất ít và khuyến khích.” Trong nói
chuyện riêng tư cụ kể nửa năm đầu cụ vất vả vì tiếng Pháp thua đám học sinh gốc
của trường và thua đám tây, đầm. Nhưng nửa năm sau thì cụ vượt lên đứng đầu. Cụ
viết ở trang 55 hồi ký VNMTKQ: “Cuối năm, dù không dốc hết sức để ôn tập các
bài vở, nhưng may mắn tôi cũng được giải nhất trong lớp và tương đối dễ dàng
qua được phần thứ hai bằng Tú Tài…” Vị giáo sư Triết người Pháp rất thích
cụ và cứ ngỡ sau này cụ sẽ theo ban triết trên đại học.
Như
vậy cụ đỗ Tú Tài phần II vào năm 1935. Nhưng tại sao, mặc dù học giỏi, mãi 9
năm sau, năm 1944, cụ Bách mới đỗ Bác sĩ. Từng có nhiều dịp gần gũi cụ mà chúng
tôi không để ý tới chi tiết này để hỏi. Thời gian này gia đình cụ đã vươn lên
tới mức bề ngoài cũng không thua kém gia đình nào; mấy anh đầu đã đi làm có
chức phận. Đặc biệt anh Tam của cụ (Nhất Linh) đã tốt nghiệp cử Nhân khoa học ở
Pháp về và thành lập báo Phong Hóa.
Tuy
gia cảnh đã thăng tiến cả về kinh tế lẫn tiếng tăm, nhưng cụ Bách lúc nào cũng
đau nỗi đau “không duyên cớ” của chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt & Đôi Bạn, hai
tác phẩm của Nhất Linh được giới trẻ thời đó ưa thích. Cái nỗi đau không rõ
ràng vì không liên hệ trực tiếp tới cuộc sống của bản thân và gia đình mình.
Nhưng lúc nào cụ cũng suy nghĩ, muốn làm một cái gì đó…không rõ ràng. Có thể
nói, tâm trạng của cụ Bách lúc đó là tâm trạng chung của giới trẻ ở cái thời có
nhiều cuộc chuyển mình của đất nước từ sau cuộc khởi nghĩa bất thành đưa tới
đoạn đầu đài của lãnh tụ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của ông trong Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Cái tâm trạng đó chắc chắn cũng là tâm trạng của Nhất Linh từ thời
rất trẻ và ông đã đưa được vào văn chương. Tất cả những điều này đã được cụ
Bách mô tả ở trang 32 hồi ký VNMTKQ: “Sau 1925, là một giai đoạn rung động mạnh
trong xã hội Việt Nam và cũng rung động đến cả tầng lớp học sinh nhỏ…Những
tiếng đồn về các hội kín chống Pháp, về những truyền đơn bí mật như tờ “Hồn
Nước”, in bằng thạch mà chúng tôi truyền nhau đọc, những cuộc bãi công, biểu
tình, cái tên Nam Đồng thư xã v.v… đều ít nhiều khơi dậy lòng yêu nước của
những tâm hồn trẻ thơ.” Và rồi cụ thể hơn, cụ viết rằng, chính cái đêm khởi
nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng mà các anh em cụ chứng
kiến, hồi hộp theo dõi tại Hà Nội đã ảnh hưởng và tạo nên Nhất Linh và Tự Lực
Văn Đoàn sau này. Ở trang 37 hồi ký VNMTKQ, cụ Bách viết, “Một ngày tháng 2 năm
1930. Buổi tối, độ chín mười giờ…Bà, mẹ tôi đã đi ngủ. Nhớ lại còn ngồi trên
gác đọc sách có anh Tam (Nhất Linh), anh Sáu (Thạch Lam) và tôi. Anh Cả đi làm
ca đêm vắng nhà. Chung quanh im lặng. Bỗng đột ngột, vẳng từ xa đến mấy tiếng
nổ, xem ra lớn hơn tiếng súng thường. Tiếng gì đây? mọi người sửng sốt. Súng?
Bom, tạc đạn? Trong thời kỳ bất thường này chúng tôi nghĩ ngay tới một cuộc nổi
dậy. Anh Tam chạy ra phía cửa sổ, hé mở cánh cửa nghe ngóng. Vài tiếng nổ thêm,
lác đác. Trong thâm tâm, chúng tôi hi vọng đây sẽ là một cuộc tấn công lớn của
cách mệnh; đều khát vọng cuộc khởi nghĩa sẽ đưa tới chấm dứt sự thống trị hung
tàn của thực dân, dành được độc lập tự do cho dân tộc. Tiếng nổ hình như vọng
tới từ trên, phía bờ sông. Nhưng rất nhanh, im lặng lại trở lại…Anh em chúng
tôi chờ đợi một thời gian, không thấy có động tịnh gì khác, lại đặt mình xuống
giường. Không ai nói với ai một câu nào, những đều biết là suốt đêm trằn trọc
không ngủ được. Có lẽ ai cũng đã cảm thấy thất vọng sâu xa…Mặc dầu thất bại, nhưng
tấm gương anh hùng ấy vẫn luôn in mãi trong trí óc anh em chúng tôi.” Và ở
trang 39, cụ kết luận về ảnh hưởng của cái đêm “cách mạng Nguyễn Thái Học” đó
đối với xã hội nói chung và đối với TLVĐ sau này như sau, “Tinh thần này
không những sẽ phản ảnh trong các cuộc cách mệnh sau này, mà còn sẽ phản ảnh về
các lãnh vực văn hóa, xã hội. Nếu không có tinh thần này, thì nói riêng, cũng
sẽ không có Nhất Linh, Phong Hóa, và Tự Lực Văn Đoàn.”
Lược
qua tình hình vừa nêu, người ta có thể hiểu tại sao cụ Bách lúc đó tuy học
trường Tây nhưng nỗi đau “vô cớ” vẫn ám ảnh khôn nguôi. Tình yêu và lý tưởng
luôn luôn là cuộc sống và nỗi ám ảnh của tuổi trẻ. Với cụ Bách cũng vậy. Cụ
Bách trẻ, đẹp trai, tài hoa, chơi nhạc hay, khiêu vũ giỏi, học cũng giỏi, lại
thuộc gia đình đang nổi tiếng vì thành lập được nhóm TLVĐ, dĩ nhiên không thiếu
cô mê. Trong mấy cô gái trẻ có một cô cùng lớp mà tới những ngày cuối đời mới
đây, khi tới thăm cụ, tôi vẫn được nghe cụ nhắc lại. Cô ta là đầm lai, học cùng
lớp. Mỗi chiều tan học cô ta thường đạp xe theo cụ trên đường về. Thời đó “Hà
Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường” (tên của Hà Nội do Thạch Lam đặt) còn yên tĩnh với
những con đường chìm dưới hai hàng cây, với Hồ Gươm lóng lánh bên hàng liễu rủ,
biểu tượng của thủ đô ngàn năm văn vật, với Nghi Tàm, Quảng Bá, hai tụ điểm của
trai thanh gái lịch vào mỗi cuối tuần, với những nam thanh nữ tú ngày ngày đạp
xe đạp từ từ dong duổi trên các ngã đường. Hà nội của những năm xưa đó chưa có
khói xe, chưa có kẹt đường. Hà Nội của mơ và mộng. Bây giờ mỗi khi nói tới một
Hà Nội thời êm ấm đó nhiều người Hà Nội trung niên trở lên thường nói, “Hà nội
thời Tự Lực Văn Đoàn”. Nhưng chàng thanh niên Nguyễn Tường Bách lúc nào cũng
u-uẩn một tâm trạng. Trong đáy cùng tâm khảm, chàng tuổi trẻ Nguyễn Tường Bách
luôn có một “chàng Dũng”, sau này xuất hiện trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn. Không
phải chỉ có cụ là có tâm trạng của chàng Dũng. Nhất Linh cũng vậy. Đã có một
thời Nhất Linh trên đường lưu vong làm cách mạng đã đổi tên Nguyễn Tường Tam
thành Nguyễn Tường Dũng để che dấu tung tích. Trong hồi ký VNMTKQ trang 140 cụ
Bách kể: “Anh Tam lúc này lấy tên là Nguyễn Tường Dũng (đúng như tên anh chàng
Dũng trong truyện Đoạn Tuyệt), bị giam vào một hang đá gần Liễu Châu…” Về cô
đầm lai đó, cụ đã nói với tôi, “Cuối cùng chú nghĩ không thể yêu cô ta được, vì
cô ta là đầm lai”. Và từ đó cụ cắt đứt liên hệ với cô ta. Tuy cũng như Dũng của
Đoạn Tuyệt, lúc đầu chưa biết phải làm gì, nhưng việc đầu tiên đối với cụ
Nguyễn Tường Bách là phải cắt đứt một “mối tình mới chớm”, chỉ vì cô ta có máu
Tây.
Thế
là con đường trước mặt của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách đã khá được định hình:
phải tìm cách đưa đất nước thoát vòng nô lệ thực dân Pháp. Cũng như Dũng đã giã
từ Loan, dù chàng rất yêu, để lên đường làm một điều gì đó cho quê hương, chàng
Dũng Nguyễn Tường Bách cũng cắt đứt một mối tình mới chớm để khởi đầu một con
đường mới cho dân tộc. Ở hoàn cảnh của Cụ Bách, với 3 người anh đang mở tuần
báo Phong Hóa cũng với ước vọng phải làm cuộc đổi mới cho quê hương, thì con
đường hợp lý nhất và khả thi nhất đối với chàng Dũng Nguyễn Tường Bách là gia
nhập cùng nhóm Phong Hóa với các anh để dùng tài văn chương của mình, qua các
phóng sự, qua các bài viết, cho độc giả thấy được những nét đẹp về nước non và
văn hóa dân tộc cùng những cảnh “Bùn Lầy Nước Đọng”, những cảnh khốn cùng của
người dân nô lệ để từ đó mỗi người dân tự ý thức phải tìm một con đường cứu
nước. Tự Lực Văn Đoàn đã khởi đi như thế; và chàng Dũng Nguyễn Tường Bách cũng
khởi đi như thế.
Cụ
Bách có tài văn chương và cụ mê văn chương. Cụ đã có những bài phóng sự hay. Cụ
đã có ít ra là một truyện ngắn viết về một đêm Giao Thừa ở nhà thương thực cảm
động. Khi hỏi về truyện ngắn này cụ Bách không còn nhớ. Tám mươi năm rồi còn
gì! Tôi và Bác sĩ Nguyễn Tường Giang, con trai thứ của Thạch Lam trong nhiều
lần nói chuyện với cụ có hỏi, “Tại sao chú không vào TLVĐ?” Cụ trả lời, “Vào
TLVĐ đối với chú thì không khó, nhưng lúc đó việc vào TLVĐ đâu có quá quan
trọng.” Chúng tôi hỏi tiếp, “TLVĐ lúc đó chưa nổi tiếng à?” Cụ cho biết, “Lúc
đó TLVĐ cũng nổi tiếng rồi chứ, nhưng đâu ngờ nổi tiếng như sau này.”
Cụ
có khiếu viết văn và thích viết văn. Vả lại cụ thích đọc sách triết và giỏi về
triết mà. Cụ viết văn ở tuổi rất nhỏ. Ở trang 32 cuốn hồi ký, cụ viết: “qua
việc đọc những tác phẩm thời ấy, tôi cũng thấy ngứa tay, và viết bừa ra mấy
truyện ngắn khi còn 11, 12 tuổi.” Cụ cho biết cụ thích viết văn hơn làm bác sĩ
nhưng cụ phải học đại học. Không thích nghề bác sĩ lắm nhưng cụ cho biết lúc đó
toàn 3 nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào) chỉ có một đại học Hà Nội. Mà đại học
Hà Nội ngoài phân khoa Canh Nông cụ không thích thì chỉ còn lại có hai phân
khoa Luật và Y. Cụ không thích Luật, học luật thời đó đa số chỉ để ra làm quan,
quan huyện (quận trưởng) chẳng hạn. Tất cả các anh em cụ mặc dù có thừa điều
kiện để đi vào quan trường nhưng không ai thích làm quan. Ở trang 29 hồi ký cụ
viết: “Trong anh em chúng tôi, không ai thích làm quan, và cũng không thích
quan. Chúng tôi không thích quan liêu, quyền quý, cũng như trọc phú chỉ biết
trục lợi; không thích triều đình phong kiến và những kẻ cộng tác với bọn thực
dân.”
Và
thế giới quan-trường đã bị một trong các tác giả của TLVĐ là Khái Hưng chỉ
trích trong tác phẩm “Gia Đình”. Như vậy cụ chỉ còn một con đường là học Y để
ra làm bác sĩ. Cụ phải học bác sĩ nhưng cụ cũng luôn đau khổ vì không thích
nghề này. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 97, cụ viết: “Trong đời tôi, có lẽ một
sự lầm lẫn trong nhiều lầm lẫn khác, là việc vào học y khoa. Lấy nó làm một cái
cần câu cơm hạng tốt, không hơn không kém. Vì tôi cũng như một số bạn hữu khác,
lúc mới vào học, rất ít nghĩ đến tính chất “cứu nhân độ thế” hay là những câu
châm ngôn của Hippocrate.” Nhưng dù sao, nghề y đã cứu cụ và gia đình cụ
trong suốt gần 40 năm lưu vong bên Trung Cộng. Cụ cho biết chính nghề Y đã giúp
cụ và gia đình tồn tại tương đối nhàn hạ và bình an hơn các người dân Trung Hoa
cùng thời tại địa phương trong suốt mấy chục năm kẹt lại tại Trung Cộng. Đặc
biệt, cụ kể, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng (1966), những đồng
nghiệp hay xếp của cụ bị Hồng Vệ Binh bắt mang đi diễu phố và đánh đập tàn
nhẫn, thương tật, không ai giám cứu giúp, thì cụ, vì có qui chế ngoại kiều, nên
không bị Hồng Vệ Binh hành hạ, do đó cụ có cơ hội kín đáo cứu chữa những người
bị đánh đập. Sau này những người đó trở lại nắm quyền đều nhớ ơn cụ.
Khi
hai chúng tôi hỏi sao cụ không tiếp tục vừa viết văn vừa học Y khoa thì cụ cho
biết học y khoa rất bận rộn. Vào những năm chót y khoa thì tình hình chính trị
lôi cuốn nên cụ càng bận rộn hơn. Đó là lý do cụ chấm dứt con đường văn chương
ngoài việc sau khi đã tốt nghiệp y khoa cụ làm chủ nhiệm rồi chủ bút mấy tờ báo
của Việt Quốc trong những năm đầu của cuộc tranh chấp Quốc Cộng 1945. Hồi ký
của Hứa Bảo Liên ở trang 65 và 67 ghi rằng sau khi chế độ thực dân Pháp bị xụp
đổ, tờ Ngày Nay bộ mới ra đời với cụ làm chủ nhiệm. Sau đó tờ này bị đình bản,
tờ Bình Minh ra đời cụ lại làm chủ nhiệm. Không lâu sau tờ này lại bị đình bản,
tờ Việt Nam Thời Báo ra đời, cụ làm chủ bút. Trong những tờ báo này chủ yếu cụ
viết bình luận chính trị. Chẳng bao lâu sau, tờ Việt Nam Thời Báo lại bị đình
bản, tờ Việt Nam ra đời. Tờ này là cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng
đối chọi với tờ Cờ Giải Phóng của Việt Minh, cụ lại được anh em cử làm chủ
nhiệm với sự cộng tác của các tác giả Khái Hưng, Hoàng Đạo. Hàng ngày cụ phải
đọc kỹ tờ “Cờ Giải Phóng” của Việt Minh để đối chọi những quan điểm bất đồng. Ở
trang 68, tác giả Hứa Bảo Liên (nàng Loan của Nguyễn tường Bách) viết tiếp, “Đầu
năm 1946, anh Bách ở luôn nhà báo cho tiện làm việc. Mỗi khi ra ngoài phải có
người bảo vệ. Anh bận rộn đến nỗi tóc không cắt, râu không cạo, đầu tóc bờm xờm
như người “vô gia cư”.
Trụ
sở của mấy tờ báo này chính là trụ sở của TLVĐ, số 80 Quan Thánh Hà Nội (hiện
nay tòa nhà to lớn này vẫn còn mang số cũ và có nhiều người cư trú, nhưng không
ai biết đó là căn nhà gắn liền với những biến động văn hóa và lịch sử đất nước
của một thời gian gần 15 năm cho tới 1946 khi Bác sĩ Bách chỉ huy lực lượng vũ
trang Việt Quốc rút lui khỏi Hà Nội lên chiến khu của Việt Quốc ở Vĩnh Yên.
Trong
thời gian sinh hoạt văn nghệ với TLVĐ cụ Bách thân với một số những cây bút trẻ
như Huy Cận, Xuân Diệu…và đặc biệt cụ hay nhắc tới nhà thơ Huyền Kiêu, một nhà
thơ to, khỏe và nghèo, là người bạn thân nhất của cụ. Cụ Bách đã phù rể trong
đám cưới của Huyền Kiêu. Tường Bách, Đinh Hùng, và Huyền Kiêu là ba trong số
những người trẻ nhất trong đám văn hữu thân cận TLVĐ. Trong số những người văn
nghệ sĩ trẻ kia có thể kể thêm Xuân Diệu và Huy Cận. Đinh Hùng đã gọi nhóm 3
người bạn thân này là “ba tiểu quỷ”. Có một giai thoại về Huyền Kiêu do Đinh
Hùng kể, mà nghe qua vừa thấy bùi ngùi, vừa thấy được hết cái tình cảm thân
thương của anh em văn nghệ sĩ thân cận với TLVĐ, vừa thấy được phần nào, cái
“bề sâu” của TLVĐ. Giai thoại đó có tựa, “Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền
Kiêu” do nhà văn Quốc Nam thuật lại lời Đinh Hùng như sau (1):
“Huyền
Kiêu vốn là bạn thân thuở nhỏ của Đinh Hùng, ở Hà Nội … Là hàng xóm, gần nhà
Thạch Lam nơi phường Trúc Bạch, tôi thường ghé thăm Thạch Lam, bàn chuyện thơ
văn rất lấy làm tương đắc. Và rồi tôi dẫn Huyền Kiêu lại giới thiệu: “Huyền
Kiêu, một nhà thơ rất có triển vọng! Tên thực anh ta là Bùi Kiều. KIÊU HUYỀN
KIỀU! Huyền Kiêu, giản dị vậy!”
Thạch
Lam cười xòa, vui vẻ dẫn hai bạn … thơ vào thư phòng trò chuyện. Nơi cư trú của
gia đình nhà văn Thạch Lam, trong Tự Lực Văn Đoàn, là một ngôi nhà tranh đặc
biệt, cất theo kiểu Nhà Ánh Sáng, do phong trào Nhà Ánh Sáng mà báo Ngày Nay
phát động từ mấy năm trước. Có phòng khách, phòng ngủ, với đầy đủ tiện nghi
…Tuy là nhà lợp tranh, vách bằng đất bùn nhồi rơm, láng xi măng, quét vôi sáng
sủa, ngôi nhà trông thật bề thế vì vẻ cao ráo, thoáng mát của nó. Nhất là ở
cạnh Hồ Tây quanh năm thoáng mát. Có vườn hoa trồng đủ cây cảnh lạ, đẹp. Một
thú chơi tao nhã của tác giả “Hà Nội Băm Sáu Phố Phường”…
Một
bữa vào cuối hè sang thu, Thạch Lam nhắn chúng tôi (vẫn lời Đinh Hùng) đến nhà
anh dùng bữa cơm tối. Theo thông lệ, chúng tôi đến sớm, ngồi nơi vườn hoa, ngắm
cảnh chiều tà trên gương hồ bát ngát … “gió rung trăng”. Thật thế đấy, nhằm đầu
tháng ta, trăng mọc sớm, lơ lửng dưới làn nước trong; từng cơn gió nhẹ lướt mặt
hồ, rung động …
Thạch Lam cười vui:
- Huyền Kiêu làm thơ đi! Nếu cần, tớ gà cho.
Tôi chẳng mấy ngạc nhiên, vì đã hơn lần được nghe Thạch Lam nói chuyện về Thơ, phẩm bình về các trường phái Thơ …
Tuy nhiên Huyền Kiêu vốn khiêm tốn, chỉ ậm ừ, cười bảo:
- Để lát nữa. Có lẽ sau bữa cơm tối nay, trong lúc tửu hậu trà dư … chúng mình thơ thẩn …
- Được lắm!
Đúng lúc, có tiếng chị Thạch Lam gọi. Và Khái Hưng, Nhất Linh ở đâu tới, cũng ào ra vườn. Một lát lại có cả Thế Lữ nữa.
Chủ nhà nhìn mọi người, khắp lượt, bảo:
- Quần hùng tề tựu gần đủ. Thôi mời quý vị vào dùng bữa, kẻo nguội cả.
Vào nhà thì đã thấy Nguyễn Tường Bách ở đấy từ bao giờ…
Thạch Lam cười vui:
- Huyền Kiêu làm thơ đi! Nếu cần, tớ gà cho.
Tôi chẳng mấy ngạc nhiên, vì đã hơn lần được nghe Thạch Lam nói chuyện về Thơ, phẩm bình về các trường phái Thơ …
Tuy nhiên Huyền Kiêu vốn khiêm tốn, chỉ ậm ừ, cười bảo:
- Để lát nữa. Có lẽ sau bữa cơm tối nay, trong lúc tửu hậu trà dư … chúng mình thơ thẩn …
- Được lắm!
Đúng lúc, có tiếng chị Thạch Lam gọi. Và Khái Hưng, Nhất Linh ở đâu tới, cũng ào ra vườn. Một lát lại có cả Thế Lữ nữa.
Chủ nhà nhìn mọi người, khắp lượt, bảo:
- Quần hùng tề tựu gần đủ. Thôi mời quý vị vào dùng bữa, kẻo nguội cả.
Vào nhà thì đã thấy Nguyễn Tường Bách ở đấy từ bao giờ…
Cơm
xong, chuyện vãn khá lâu. Mãi khuya đêm Nhất Linh mới bảo, vẻ thật trịnh trọng:
“Lát nữa tôi sẽ phải rời xa các anh em, nên có thể đây là một đêm họp mặt để
tạm biệt. Chuyến hành trình này sẽ không lâu đâu. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.
Bây giờ chúng ta có thể chia tay nhau được rồi. Riêng tôi, tôi còn có điều nói
riêng với anh Khái Hưng, vậy các bạn ra vườn chơi, hoặc đi ngủ. Thành thật cảm
ơn tất cả…”
Tôi nhớ đại ý thế, vì đã quá lâu ngày. Mọi người đều buồn nhưng không ai lên tiếng – không có can đảm lên tiếng hỏi, vì đều biết Nhất Linh là người hoạt động cách mạng. Đã đến lúc phải “mạnh tay” với thực dân Pháp, chứ không còn ở giai đoạn làm văn hóa để nâng cao dân trí người mình nữa …
Ba đứa tôi cùng kéo nhau ra vườn, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi. Có lẽ Thế Lữ đã về nhà gần đấy. Quanh quẩn vẫn chỉ có Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi. Và Thạch Lam, lại chính là Thạch Lam, khơi mào sau khi đã nghĩ lung:
- Thơ … ra rồi! Này, hãy nghe đây! và anh đặng hắng, ngâm:
“Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề …”
Đấy câu mở đầu đấy! Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!
Huyền Kiêu và tôi ngơ ngác. Tôi không rõ vì sao bữa nay Thạch Lam lại nhiều … thi hứng đến thế.
- Được! Huyền Kiêu nói. “Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề …” Ờ, được đấy. Và anh ngẫm nghĩ. Câu mở của Thạch Lam thật tuyệt. Nó gợi ý cho tôi về một cái gì có thể gọi là …”cổ kính”. Một đêm tiễn đưa nhau chẳng hạn. Hệt đôi bạn Khái Hưng và Nhất Linh trong đêm khuya nay … trước giờ ly biệt.
- A, khá! Thạch Lam cười. Anh nắm bắt được ý thơ rồi đấy. Vậy cứ thế mà tiếp nối. Tôi vào nhà đem trà nóng ra đây nhá. Nhân thể coi xem họ ra sao?
Một lát sau Thạch Lam đem bình trà và tách ra, bảo:
- Anh ba tôi và Khái Hưng im lìm ngồi trong thư phòng. Cả hai đều không nói năng gì cả. Phòng không đèn đóm nên bóng tối chan hòa. Ánh trăng mờ tỏ … Có con mèo tam thể tôi nuôi quyện dưới ghế Nhất Linh ngồi. Bên cửa sổ sát vách tường, bức liễn trúc treo rung động dường như cảm thông cho đôi bạn đang nhấp chén rượu suông trong phút giờ sắp ly biệt …
Tôi chợt lên tiếng:
- Buồn thật. Mà cổ nhân cũng đã từng than: “Ôi! biệt ly sao mà buồn thế!” thật là chí lý.
Chúng tôi uống trà. Trăng vừa lặn. Gà rền tiếng gáy phía xa. Sao dần rơi … dần rơi và tôi chợt thấy lành lạnh.
Vẫn không thấy chút động tĩnh gì nơi Khái Hưng và Nhất Linh ở trên nhà. Tôi cảm nghĩ trong giờ phút thiêng liêng ấy, ta không nên vọng động. Cũng đừng hỏi han gì cả. Trời sắp sáng rồi.
Tôi nhớ đại ý thế, vì đã quá lâu ngày. Mọi người đều buồn nhưng không ai lên tiếng – không có can đảm lên tiếng hỏi, vì đều biết Nhất Linh là người hoạt động cách mạng. Đã đến lúc phải “mạnh tay” với thực dân Pháp, chứ không còn ở giai đoạn làm văn hóa để nâng cao dân trí người mình nữa …
Ba đứa tôi cùng kéo nhau ra vườn, ngồi nghe cá quẫy, nhìn trăng vời vợi. Có lẽ Thế Lữ đã về nhà gần đấy. Quanh quẩn vẫn chỉ có Huyền Kiêu, Thạch Lam và tôi thôi. Và Thạch Lam, lại chính là Thạch Lam, khơi mào sau khi đã nghĩ lung:
- Thơ … ra rồi! Này, hãy nghe đây! và anh đặng hắng, ngâm:
“Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề …”
Đấy câu mở đầu đấy! Huyền Kiêu hãy làm tiếp đi!
Huyền Kiêu và tôi ngơ ngác. Tôi không rõ vì sao bữa nay Thạch Lam lại nhiều … thi hứng đến thế.
- Được! Huyền Kiêu nói. “Hiu hắt giăng khuya lạnh bốn bề …” Ờ, được đấy. Và anh ngẫm nghĩ. Câu mở của Thạch Lam thật tuyệt. Nó gợi ý cho tôi về một cái gì có thể gọi là …”cổ kính”. Một đêm tiễn đưa nhau chẳng hạn. Hệt đôi bạn Khái Hưng và Nhất Linh trong đêm khuya nay … trước giờ ly biệt.
- A, khá! Thạch Lam cười. Anh nắm bắt được ý thơ rồi đấy. Vậy cứ thế mà tiếp nối. Tôi vào nhà đem trà nóng ra đây nhá. Nhân thể coi xem họ ra sao?
Một lát sau Thạch Lam đem bình trà và tách ra, bảo:
- Anh ba tôi và Khái Hưng im lìm ngồi trong thư phòng. Cả hai đều không nói năng gì cả. Phòng không đèn đóm nên bóng tối chan hòa. Ánh trăng mờ tỏ … Có con mèo tam thể tôi nuôi quyện dưới ghế Nhất Linh ngồi. Bên cửa sổ sát vách tường, bức liễn trúc treo rung động dường như cảm thông cho đôi bạn đang nhấp chén rượu suông trong phút giờ sắp ly biệt …
Tôi chợt lên tiếng:
- Buồn thật. Mà cổ nhân cũng đã từng than: “Ôi! biệt ly sao mà buồn thế!” thật là chí lý.
Chúng tôi uống trà. Trăng vừa lặn. Gà rền tiếng gáy phía xa. Sao dần rơi … dần rơi và tôi chợt thấy lành lạnh.
Vẫn không thấy chút động tĩnh gì nơi Khái Hưng và Nhất Linh ở trên nhà. Tôi cảm nghĩ trong giờ phút thiêng liêng ấy, ta không nên vọng động. Cũng đừng hỏi han gì cả. Trời sắp sáng rồi.
Và
quả thật, ở bên Hồ Tây bữa ấy, trong sân nhà Thạch Lam, ba đứa chúng tôi đều
rất dè dặt, hạn chế từng câu nói, tiếng cười. Trong khi ấy Huyền Kiêu thầm lặng
“làm việc”: suy tư về ý thơ và ý nghĩa của sự chia tay của đôi bạn văn Tự Lực
Văn Đoàn.
Chợt Huyền Kiêu nói:
- Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề “Tương Biệt Dạ”. Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi dục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký, bất kể trời vừa sập tối lại vì trăng đã chẳng còn… Tình bạn thơ – văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó.
Chợt Huyền Kiêu nói:
- Tôi thử đọc cho các anh nghe. Bài thơ nhan đề “Tương Biệt Dạ”. Hay, dở tùy nghi Thạch Lam và Đinh Hùng giúp sửa lại. Và anh khe khẽ ngâm sau khi dục Thạch Lam vào nhà lấy giấy bút ghi tốc ký, bất kể trời vừa sập tối lại vì trăng đã chẳng còn… Tình bạn thơ – văn giữa chúng tôi thắm thiết là thế đó.
Tương
Biệt Dạ
Hiu
hắt giăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Lưu luyến người đi với kẻ về.
Ý sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Lưu luyến người đi với kẻ về.
Ngồi
suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng giăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng giăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?
Đã
tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn
Sớm
biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Giăng mùa Xuân đó, ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu?
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Giăng mùa Xuân đó, ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu?
Bài
“Tương Biệt Dạ” của Huyền Kiêu, sáng tác vào chớm thu năm Canh Thìn – 1940, chỉ
mấy tháng sau là bước sang năm Tân Tỵ – 1941… Khi hoàn thành bài “Tương Biệt
Dạ”, vào nhà thì Nhất Linh đã lên đường từ lúc nào rồi …
Trong
giới sinh viên tích cực hoạt động bí mật chống Pháp cụ Bách thân với cụ Dương
Đức Hiền, lúc đó làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên, sau này là chủ tịch Đảng Dân
chủ. Hai cụ Nguyễn Tường Bách và Dương Đức Hiền cùng trong đảng Đại Việt Dân
Chính do Nhất Linh thành lập. Trong hồi ký, ở trang 123, tình bạn của hai cụ
được cụ Bách mô tả như sau: “Một buổi tối sau, có người lên gác trọ tìm tôi.
Nhìn rõ, mới biết là anh Dương Đức Hiền. Chúng tôi vui mừng xiết tay nhau…cả
hai đều chưa bị khó dễ. Anh Tam (ghi chú của người viết: tức Nhất Linh) vẫn mất
tích. Sau có tin báo là anh đã trốn ra ngoài nước, đi Quảng Châu. Hai chúng tôi
đồng ý tạm thời hãy nằm im, xem tình thế biến chuyển ra sao.”
Nhưng
rồi chẳng bao lâu sau, vì khác chính kiến, tình bạn thắm thiết đó tan rã. Trong
hồi ký của Hứa Bảo Liên, trang 64 ghi lại mối quan hệ chặt chẽ giữa cụ Bách và Cụ
Dương Đức Hiền. Tác giả cuốn hồi ký viết, “…có người bạn anh Bách là anh Dương
Đức Hiền tỏ ý muốn gặp anh Bách để bàn chuyện. Hiền trước kia là bạn cùng một
chí hướng và cùng tham gia vào một tổ chức quốc gia. Sau này tổ chức bị Pháp
khủng bố, qua một thời gian sau đó, anh ta tham gia vào phong trào Việt Minh và
sáng lập đảng Dân Chủ.”
Một
cách chi tiết hơn, trong hồi ký VNMTKQ ở trang 153 cụ Bách thuật lại: “Một hôm,
vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người
lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút
từ ống giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ
đến: Anh Dương Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về
anh.” Trong thư cụ Dương Đức Hiền trước cùng đảng Đại Việt Dân Chính với cụ
Bách nhưng nay đã đại diện Việt Minh, hẹn gặp để bàn luận việc cộng tác chung.
Cụ Bách và cụ Khái Hưng được đề cử đi gặp cụ Dương Đức Hiền. Nơi gặp cách Hà
Đông độ năm cây số. Cụ Bách viết tiếp, “Chúng tôi đạp xe gần tới Hà Đông thì rẽ
vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi.
Gần đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu
ra đứng đợi. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt
đen sạm, nhưng hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần là mật thám cũng biết đây
là một nông dân giả hiệu.
Chúng
tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm, trông
hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người, chỉ
có một người ngồi sau miếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ.
Sau
vài lời hàn huyên, anh cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh
đạo đảng Dân Chủ, và khuyên chúng tôi cùng các anh em Đại Việt Dân Chính khác
cũng nên tham gia Việt Minh, không nên đứng lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay
trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt để, không cách mạng theo
đường lối công nông. Anh nói Việt Minh nay đã phát triển mạnh, có căn cứ quân
sự, được Đồng Minh ủng hộ…Chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế
mà anh thất vọng, rằn giọng nói,
-Nếu
các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu
không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!” Cụ Bách và Khái Hưng hơi ngạc nhiên,
vì lời dọa dẫm lại do một đồng chí cũ đưa ra. Hai cụ chỉ cười, đưa mắt nhìn
nhau. Cuối cùng cụ Bách đáp, “Cách mạng Việt Nam thì có nhiều con đường để đi,
không nhất định là phải tham gia vào Việt Minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi
sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời sau.”
Cuộc
hẹn gặp lại sau đó một tuần đã không thành, vì Cụ Hiền nhắn là cụ phải đi lên
miền trên có việc cần và sẽ liên lạc lại sau. Hai bên không gặp lại cho tới mấy
tháng sau, bất ngờ cụ Bách lại gặp lại cụ Hiền trong một buổi hợp tác đảng
phái, mà từ bạn hữu đã trở nên đối địch. Cụ Bách viết tiếp ở trang 155, “Âu
cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công cuộc chung, góp sức với
nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song thực ra, hai bên có thể chân
thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải.”
Sự
chia tay của hai cụ, chính là điển hình sự chia tay của cả một thế hệ cùng ôm
mộng đánh đổ thực dân Pháp, nhưng theo hai con đường khác nhau. Thậm chí, còn
có sự chia rẽ của những anh em ruột thịt cùng một gia đình, hay của hai cha
con, chỉ vì lý do tương tự. Trong hồi ký VNMTKQ ở trang 100, cụ Bách viết,
“Nhưng, trong hàng ngũ người Việt chủ trương giải phóng dân tộc, dành độc lập,
đã có những chia rẽ sâu xa về ý thức hệ, về sách lược và đường lối hoạt động.”
Thế hệ 1945 là thế hệ của những người yêu nước, dù là cộng sản hay quốc gia.
Tất cả đều có một điểm chung đẹp đẽ là đánh đuổi thực dân Pháp. Trong hồi ký
VNMTKQ ở trang 101, cụ Bách viết, “Nhiều phần tử trí thức và sinh viên, bị thôi
thúc bởi lòng yêu nước, sẽ kế tiếp nhau tham dự vào những phong trào chống
Pháp, hoặc cộng sản hoặc không cộng sản.”
Thế
hệ thanh niên thập niên 1940-45 là một thế hệ “đẹp” với nhiều ước vọng dành độc
lập cho tổ quốc. Đặc biệt thế hệ 1945, ở cả hai khuynh hướng Quốc, Cộng, trong
tình hình thế chiến thứ II, các dân tộc thuộc địa vươn lên dành độc lập, đã là
một thế hệ “huyền thoại” trong lịch sử cận đại của Việt Nam với nhiệt tình yêu
nước không bờ bến, sẵn sàng từ bỏ gia đình, người yêu để lên đường cứu nước.
Thế hệ 1945 huyền thoại đã được Đằng Phương (bút hiệu của giáo sư Nguyễn Ngọc
Huy) mô tả qua bài thơ Những Anh Hùng Vô Danh, mà những câu mở đầu thật cảm
động và bi tráng: Họ là những anh hùng không tên tuổi – Sống âm thầm trong bóng
tối mênh mông, Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, Nhưng can đảm và tận
tình giúp nước.
Nhưng
thế hệ đó cũng trải qua nhiều bi thảm. Cái bi thảm thể hiện trong tình bạn của
cụ Bách với những người bạn thân thương nhất của cụ, mà sau này, mỗi lần nhắc
lại cụ vẫn bùi ngùi. Trong những chia rẽ của tình bạn, có lẽ sự chia tay với
Dương Đức Hiền làm cụ ray rứt nhất. Cả hai đều có nhiệt tình chống Pháp, lúc
đầu cùng chung một hướng, cùng chung một đoàn thể. Nhưng rồi sau cả hai lại
theo hai con đường khác nhau: Quốc Gia và Cộng Sản. Thực ra, thế hệ thanh niên
với những người như cụ Dương Đức Hiền mang bầu nhiệt huyết theo Việt Minh không
phải là theo Cộng Sản. Ngày nay, khá nhiều các đảng viên Cộng Sản lão thành từ
thời 1945 và cuộc kháng chiến 9 năm đã thú nhận lúc đó không biết Cộng Sản là
gì, không biết chủ thuyết Mác Lê là gì, chỉ một lòng chiến đấu vì độc lập, tự
do của tổ quốc.
Người
Cộng Sản đã thắng keo đầu khi họ chớp thời cơ, nhân một cuộc biểu tình của công
chức Hà Nội ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ăn mừng nước nhà Độc Lập, thoát
khỏi ách thực dân Pháp. Cộng Sản đã nhanh tay biến cuộc biểu tình của nhân dân
Hà Nội yêu nước thành cuộc biểu tình của Cộng Sản, dưới danh nghĩa Việt Minh.
Và Cộng Sản đã cướp được chính nghĩa.
Chính
phủ liên hiệp Quốc Cộng hình thành sau đó đã không có được điều cơ bản là sự
tin tưởng lẫn nhau của cả hai phe. Cho nên sự liên hiệp sớm đi tới tan rã. Lịch
sử hợp tan của gia đình Nguyễn Tường của cụ Bách cũng gắn liền với giai đoạn
hợp tan này của lịch sử dân tộc. Một ngày, cụ Bách bất ngờ tới thăm người chị,
bà Nguyễn Thị Thế, nhà ở đê Yên Phụ, cũng gần nhà Thạch Lam. Tuy cùng ở Hà Nội
nhưng đã lâu rồi cụ Bách vì bận việc chính sự đã không tới thăm chị và mấy đứa
cháu như thường xuyên trước kia. Lần tới thăm bất ngờ này khiến bà chị và mấy
đứa cháu ngạc nhiên. Cuộc gặp gỡ đã được Thế Uyên, con của bà Thế, kể lại đại
khái như sau: Bất ngờ thấy chú Bách tới sau một thời gian dài vắng mặt. Lần này
lại thấy chú đi có một người hộ vệ đứng ở đầu ngõ. Cũng như mọi lần, Thế Uyên
lục túi cụ Bách định tìm kẹo. Nhưng lần này chàng không thấy kẹo mà chỉ lôi ra
được mấy viên đạn. Cuộc nói chuyện của cụ Bách với mẹ Thế Uyên lần này ngắn
ngủi và có vẻ nghiêm trọng. Cụ cho chị cụ biết cụ phải ra đi, và ra đi khá lâu,
không biết bao giờ về. Đi đâu thì cụ không nói. Dĩ nhiên cùng với sự chia tay
với gia đình, cụ Bách cũng phải chia tay với “nàng Loan” của cụ.
Sau
khi rời Hà Nội Cụ Bách lên chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Vĩnh Yên.
Theo hồi ký của “nàng Loan của Bách”, Cụ Bách ít gửi tin tức về. “Nàng Loan”
của cụ Bách dự tính tiếp tục học đại học tại Trung Quốc. Trong hồi ký “Nguyễn
Tường Bách và Tôi” của Bà Hứa Bảo Liên, phu nhân của Cụ Bách, “nàng Loan” của
cụ Bách kể chuyện giã từ giữa “Loan và Dũng” ở trang 73 như sau:
“Tự
nhiên tôi nghĩ có lẽ tôi phải lên chiến khu cho anh Bách biết tôi dự tính đi
học. Kỳ thực lúc đó, tôi cũng không biết hiện anh đang ở đâu? Chiến khu ở chỗ
nào? Sau hỏi ra rồi tôi mới đáp xe hơi, sau chuyển sang đi thuyền đến Việt Trì.
Vừa đặt chân tới đất này, tôi cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng rất mau tôi lại cảm thấy
không khí khẩn trương, người đi lại rất ít. Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng súng
nữa. Tôi tìm đến trụ sở thì gặp ngay anh Bách và anh Vũ (ghi chú của người
viết, tức cụ Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ quân sự của VNQDĐ). Có lẽ anh cũng
không ngờ tôi đến thăm anh trong lúc này. Tôi cho anh biết tôi dự tính đi Trung
Quốc học. Lúc đó chúng tôi cũng không biết bao giờ mới gặp lại nhau vì trong
thời buổi loạn lạc này, không ai có thể tiên đoán được tương lai! Mà lúc đó anh
cũng không nói cho tôi biết đảng bộ và quân đội của Việt Quốc đã dự định rút
khỏi Việt Trì để lên Yên Báy. Sáng hôm sau, tôi đáp thuyền rồi đổi sang xe hơi
trở về Hà Nội.”
Không
đương cự nổi với Cộng Sản tại Hà Nội, cụ Bách phải dẫn lực lượng vũ trang của
Việt Quốc lui về vùng chiến khu Việt Quốc ở Vĩnh Yên, nơi có đồn điền nổi tiếng
của một đảng viên cao cấp của Việt Quốc là Đỗ Đình Đạo. Trên cuộc rút quân đó,
lực lượng Việt Quốc và Cộng Sản (Việt Minh) đã đụng độ khốc liệt. Trong một lần
giao tranh, cụ bắt được một cấp lãnh đạo của Việt Minh, sau này lên tướng.
Trong tình cảm lãng mạn tiểu tư sản, cụ không trói hay đánh đập người “tù
binh”, mà chỉ tước khí giới rồi cho ngủ chung với lực lượng vũ trang của cụ tại
nơi đóng quân. Ngày hôm sau, hai chiếc xe hơi cắm cờ Việt Minh và cờ Việt Nam
Quốc Dân Đảng từ Hà Nội tới, trên xe có đại diện hai phe trong chính phủ Liên
Hiệp, yêu cầu trả tự do cho người “tù binh Việt Minh” và lãnh người “tù binh”
đó về Hà Nội. Người đại diện Việt Quốc trên một trong hai xe hơi đó lại chính
là nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, anh thứ tư của cụ (xem Trên Sông Hồng
Cuồn Cuộn của Nguyễn Tường Bách và Hồi ký của Hứa Bảo Liên)
Chẳng
bao lâu sau sự chia rẽ của chính phủ Liên Hiệp Quốc Cộng đi tới chỗ tiêu diệt
lẫn nhau một cách tàn khốc hơn. Tại làng Phượng Dực, quê của bà Nhất Linh,
trong căn nhà của bà, Cộng Sản (dưới danh nghĩa Việt Minh), trên con đường truy
lùng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và gia đình, đã bắt mang theo 4 người gồm có bà
Nguyễn Tường Tam, con trai Nguyễn Tường Việt của cụ Nguyễn Tường Tam khi đó mới
khoảng 14 tuổi, em ruột của bà Nguyễn Tường Tam, tên Tín, và bố tôi, cụ Nguyễn
Tường Cẩm, anh thứ hai của cụ Nguyễn tường Tam. Cộng sản dắt 4 người tù họ gọi
là “phản động” đi về vùng họ kiểm soát. Một hôm tình cờ, máy bay đồng minh tới
bỏ bom. Văn phòng nơi giam giữ xụp đổ. Hai người tù đàn ông đang bị xích nên
không thoát được. Chỉ có bà Nguyễn Tường Tam và người con trai 14 tuổi không bị
trói nên thoát được. Lại vẫn là máu tiểu tư sản, anh Nguyễn Tường Việt mới đây
kể lại, trước khi đi trốn, anh và mẹ đã nâng cái cây sườn nhà đổ xập đang đè
lên một người cán bộ để cứu người cán bộ đang bị thương này. Sau đó hai mẹ con
phải trốn 15 ngày dưới hầm trong căn nhà của một người giúp việc ngày xưa tốt
bụng và trung thành mà chúng tôi gọi là anh Tí, trước khi anh giúp việc này tìm
được cách đưa vợ con cụ Nhất Linh Nguyễn Tường Tam trốn về Hà Nội. Còn bố tôi
và người em bà Nhất Linh, bị thủ tiêu mất tích kể từ đó. Cái sự bi thảm trong
cuộc chiến Quốc Cộng đã xảy ra cho gia đình tất cả các anh em Nguyễn Tường của
Cụ Bách cũng là những bi thảm tương tự xảy ra cho nhiều gia đình khác.
Khi
bàn tới sự thất bại của phe Quốc gia trước đối thủ Cộng sản người ta thường nói
tới sự quyết liệt và tài tổ chức khéo léo của phe Cộng Sản hơn hẳn phe Quốc
Gia. Nhưng người ta ít bàn tới việc người Cộng Sản quyết liệt ra sao và họ tổ
chức giỏi như thế nào.
Từ
1945 cho tới 1975 người Quốc Gia bị thua Cộng Sản vì thái độ “không quyết liệt
với kẻ thù,” trong khi Cộng Sản thì hoàn toàn trái ngược. Trong những thanh
toán nhau giữa hai phe, người Cộng Sản quyết liệt hơn ở điểm họ truy lùng toàn
bộ bố mẹ, anh, chị, em, vợ con, kể cả con còn niên thiếu của đối thủ chính trị
để tiêu diệt. Họ gọi chung những người đó là “thành phần phản động”. Một đòn
hiểm ác hơn nữa là CS cô lập không những người bị cho là phản động mà còn cô
lập cả gia đình họ. Cộng sản vận động, và đe dọa mọi người trong xóm, mọi bạn
bè, họ hàng bà con không được quan hệ với cá nhân và gia đình của người bị họ
cho lành “thành phần phản động”. Ngay cả những người bạn thân, học trò ruột ra
đường trông thấy họ từ xa cũng né tránh sang bên kia đường, không dám chạm mặt,
không dám chào hỏi dù chỉ một câu, sợ bị liên lụy có thể mang họa vào thân, nhẹ
thì bị kiểm điểm, nặng thì bị đi tù. Sự cô lập, bỏ đói của Cộng sản đối với cụ
Phan Khôi hay các nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc với các trí
thức từng có công với Cộng Sản như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức
Thảo v.v… là những ví dụ cho thấy sự độc ác, quyết liệt của Cộng sản khác hẳn
chủ trương, chính sách ôn hòa, hợp lý, hợp tình người của người Quốc Gia. Sự
quyết liệt một cách độc ác của cộng sản đã được Luật gia Nguyễn Mạnh Tường mô
tả khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Hòa Khánh ở trang 712 cuốn Nhân Văn Giai
Phẩm của Thụy Khuê. Hòa Khánh hỏi, “Luật sư có bị bắt, bị giam cầm gì không?
Trả lời, “Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là
bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai
dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên lụy đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi
đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh
đi chỗ khác.” Hòa Khánh hỏi, “trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy,
luật sư làm gì để sống?” Trả lời, “Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng
không nhận…cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu…Rồi tất cả đồ đạc cạn dần…Tôi
lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè.” Đọc hết tường thuật về sự đàn áp
của cộng sản đối với gia đình tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, người ta thấy kinh hãi
tới độ không tưởng tượng được là có thể tàn bạo tới như vậy (2). Hoàn
cảnh bị cô lập và đàn áp của tiến sĩ Trần Đức Thảo cũng kinh hãi tương tự. Và
đỉnh điểm là bà vợ Tiến sĩ Trần Đức Thảo không chịu nổi phải nạp đơn ly dị với
ông vào năm 1960 (3). Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chính sách
cô lập, đàn áp, bỏ tù (gọi là cải tạo), tịch thu nhà cửa, đất đai, ruộng vườn,
cửa tiệm, kho hàng, cơ xưởng sản xuất và triệt đường sinh sống lại được áp dụng
trên qui mô rộng lớn toàn miền nam đối với hàng trăm ngàn quân nhân, công chức,
doanh nhân và người Việt gốc Hoa. Và lần này không phải chỉ vài gia đình tan
nát như ở miền bắc sau 1954, mà là cả chục ngàn gia đình vợ chồng bị tan nát,
chia lìa.
Việc
truy đuổi để tiêu diệt toàn thể bố mẹ, vợ con, anh chị em của đối thủ chính trị
là điều không một tổ chức chính trị nào của người Quốc Gia chủ trương. Sự khác
biệt về cách đối xử của người Quốc gia và Cộng sản đối với thành phần khác
chính kiến bắt nguồn từ sự khác biệt trong lý thuyết hành động. Chủ thuyết Mác
Lê dậy các cán bộ Cộng Sản phải phân loại nhân dân ra từng thành phần không chỉ
dựa trên hành vi chính trị hay kinh tế của cá nhân người đó mà còn dựa trên lý
lịch gia đình ba đời. Phe Quốc gia không buộc người dân khai lý lịch ba đời hay
hai đời mà chỉ đòi hỏi người dân khai lý lịch về phần cá nhân họ mà thôi. Dựa
trên lý lịch ba đời mỗi người dân bị Cộng sản phân loại vào một thành phần nào
đó để hoặc được hưởng ân huệ hoặc bị đàn áp, triệt hạ. Ngày 5/6/2013, trên
trang mạng “Bảo
Tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh“, trong bài Quá trình thành lập Xứ uỷ Trung Kỳ và
các Tỉnh đảng bộ Nghệ Tĩnh, tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân viết nguyên văn, “Xứ uỷ
Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh
trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ,” Cho tới hiện nay, thế kỷ thứ
21, Cộng Sản vẫn còn áp dụng nguyên tắc của luật rừng này. Ngày nay họ đàn áp,
triệt hạ tất cả cha mẹ, anh chị em của những phần tử đối kháng bằng nhiều cách
như ép chủ nhà chấm dứt hợp đồng thuê nửa chừng, ép công ty họ đang làm việc
phải sa thải họ v.v… Chưa kể họ còn cho công an mặc thường phục đóng vai côn đồ
hành hung, gây tai nạn giao thông v.v…Cái thâm độc của CS ở đây còn thể hiện ở
điểm họ không chủ trương gây tai nạn chết người mà chỉ gây thương tật nặng. Như
vậy, nạn nhân vẫn còn sống và từ đó trở thành một gánh nặng cho toàn bộ gia
đình. Ví dụ thì đầy dẫy trên báo chí lề trái (blogs). Mới đây, ngày 19/6/2013
trong bài “Đinh
Nhật Uy bị bắt vì “không thuyết phục được Đinh nguyên Kha nhận tội“?” ký
giả Trương Minh Đức viết, “Kể từ khi sinh viên Đinh Nguyên Kha bị bắt thì công
an địa phương luôn sách nhiễu gia đình bằng nhiều thủ đoạn, họ thường xuyên gọi
điện thoại với những khách hàng đến sửa chữa máy vi tính tại cơ sở của Đinh
Nhật Uy (ghi chú của Ng. tường Tâm: người anh), công an hăm dọạ khách hàng là
nếu làm ăn với gia đình “phản động” này thì hãy coi chừng đó! và cũng kể từ đó
không ai dám đến làm ăn với cơ sở của Đinh Nhật Uy, thời gian vắng khách kéo
dài Uy không chịu nổi với các khoản thuế, chi phí… Đành phải đóng cửa để về
vườn làm bất cứ công việc gì cho gia đình. Từ một Kỹ Sư Công nghệ thông tin,
chuyên gia máy tính đành phải về cuốc đất trồng rau, giăng lưới bắt từng con cá
sặc để góp thêm cho mẹ Liên chờ đến chuyến thăm nuôi gởi cho em Nguyên Kha đang
ở trong tù… đang thất nghiệp không giúp ích được gì nên tính lên Sài Gòn in tái
bản thêm 400 cuốn sách kỹ thuật về sửa chữa máy Photocoppy mà Uy cùng mấy người
bạn đồng xuất bản trước đây, nếu bán được cũng có ít tiền giúp mẹ để phụ giúp
nuôi em Kha… nhưng khi vừa đến nhà in thì bị từ chối với lý do là tên của Nhật
Uy có trong cuốn sách đó nên không được in tái bản!??..”
Ngày
19-6-2013 trong phản hồi bài: “Một gợi ý cho biểu tình ở VN: Đứng im để biểu
tình ở Thổ …” Một khách với mã số 90908 đã viết, “Tôi không biết cách xử lý của
cảnh sát các nước khắc nghiệt tới đâu, nhưng tôi biết rõ ở VN, không chỉ cảnh
sát, cả một guồng máy sẽ ập xuống, không chỉ bản thân người đi biểu tình, cả
gia đình thân quyền cũng vạ lây. Triệt đường sinh kế, cô lập sinh hoạt, triệu
tập lên triệu tập xuống, rỉ tai, hù dọa, rồi nếu cần thì thuê mướn bọn xã hội
đen hành xử kiểu côn đồ…Kể sơ sơ những thứ lồ lộ ra trước mắt mọi người thế chứ
còn những chiêu ngầm gian xảo hơn, tàn bạo hơn, có thể tôi vẫn chưa kịp nắm rõ.
Phe
Quốc Gia không có một lý thuyết hành động nào phân loại người dân theo lý lịch
gia đình để có chính sách đối xử tương ứng cho nên không có chính sách đàn áp,
tiêu diệt thân nhân, gia đình của các phần tử Cộng Sản. Trong suốt 21 năm của
chính quyền miền Nam, không một người vợ nào của Cộng Sản nằm vùng bị bắt nếu
không có bằng chứng chính người đó hoạt động cho Cộng Sản. Vợ con họ cũng không
bị đuổi việc cho dù đang làm việc cho chính quyền. Các khách hàng làm ăn với vợ
con họ cũng không bị đe dọa để chấm dứt buôn bán với họ. Không một người con
nào của cán bộ cộng sản nằm vùng hay tập kết ra Bắc bị đuổi học hay không xin
được việc làm trong công sở chỉ vì liên hệ gia đình. Nhiều khi người Quốc gia
còn đối xử với các đối thủ Cộng sản một cách “Quân tử tầu” nữa. Sự việc này mới
đây đã được nhiều “cộng sản nằm vùng” thuật lại. Bài “Có một giờ G khác vào năm
1974″ đăng trên báo Saigon Tiếp Thị
(http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html) có lời
thuật của “Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung”. Người phi công của
Không Quân Saigon ném bom Dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đã thuật lại việc Chính
Quyền Saigon và Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Saigòn đối xử với vợ con ông sau
khi ông theo Cộng Sản phản bội Việt Nam Cộng Hòa như sau: “…thời gian sống
trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ
nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5
tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn
ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi.
Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa
bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng
hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo
vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì
bà cứ mang theo”. Bài báo thuật tiếp, “Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4
Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách
người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè,
người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.”
Người Quốc gia là như vậy, “tiểu tư sản”, lại thêm “quân tử tầu”, nên thua Cộng
Sản là phải.
Còn
nói về tài tổ chức khéo léo của Cộng Sản hơn hẳn người Quốc Gia thì phải hiểu
rằng người Quốc Gia thua kém Cộng Sản chỉ vì khác hẳn Cộng Sản, người Quốc Gia
tổ chức theo nguyên tắc Pháp Quyền (rules of law), trong khi Cộng Sản không có
luật, hay chỉ có luật để trưng bày, trong thực tế họ dùng luật miệng, luật
rừng. Chính vì nguyên tắc Pháp Quyền của Người Quốc Gia mà đại đa số cán bộ
Cộng Sản nằm vùng đã được ung dung hoạt động để cuối cùng phá hỏng cái nền dân
chủ Pháp Quyền đã từng bảo vệ người dân cũng như bảo vệ chính họ. Ngày nay, họ
đang tranh đấu quyết liệt đòi chính quyền Cộng Sản phải trả lại cho họ những
nhân quyền họ từng được hưởng ở miền Nam mà ngày xưa chính họ phá bỏ. Để hiểu
rõ điều này, tốt hơn hết nên nghe tường thuật của cựu “Việt Cộng nằm vùng” Hạ
Đình Nguyên trong bài “Nguyễn Phương Uyên, tôi có thể làm gì cho em?” đăng ngày
5-11-2012 trên trang mạng Việt-studies ( http://vietstudies.info/kinhte/HaDinhNguyen_NguyenPhuongUyen.htm
) ” Đối tượng mà chúng tôi chống, lúc
bấy giờ, là Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa, song lại có đôi điều mà trái tim công
bằng của tuổi trẻ ghi nhớ như là nét son của một xã hội công dân – dù nó chưa
tương xứng để gọi tên như thế– Tôi nhớ tại Tối Cao Pháp viện, Tổng thống VNCH –
Nguyễn Văn Thiệu, đã đích thân đến Tòa án can thiệp, tranh luận tay đôi với
Viện trưởng Nguyễn Minh Tiết, rằng cần phải kết án 21 SV trong số 42 SVHS đã bị
bắt vừa qua là Việt Cộng, vì có bằng chứng minh bạch. Ông Viện trưởng Tiết đã
cương quyết bác bỏ, vì sự tra tấn dã man là bằng chứng của ép cung, lời cung đã
khai không còn giá trị. Thế là hầu hết đã được trả tự do ngay sau phiên tòa.
Trong đó có một số anh chị có vai trò trong tổ chức Thành đoàn CS.” Cái tổ chức
của người Quốc Gia kém xa Cộng Sản ở điểm mà chính ông Hạ Đình Nguyên cũng phải
nhận định tiếp, “Dù các anh chị ấy có lập trường kiên định, một lòng trung
thành với con đường lý tưởng đã chọn, song không khỏi ghi nhớ về tính cách của
một vị quan tòa, và nguyên tắc, dù chưa phải là thực chất của một thể chế dân
chủ, nhưng ở đó có một số điểm tựa để cho người dân tin cậy, là hệ thống luật
pháp về dân sự, dù thời điểm đó đang là chiến tranh.” Người Quốc Gia tổ chức
kém Cộng Sản bởi vì họ có một tổ chức tư pháp bảo vệ người dân như vậy.
Người Quốc Gia đã hành xử hoàn toàn khác người Cộng Sản, “dù thời điểm đó đang là chiến tranh” (mượn lời Việt Cộng nằm vùng Hạ Đình Nguyên) do đó trong một thời điểm của lịch sử họ đã thua.
Sự
thất bại của đoàn quân Việt Quốc đã khiến cụ Bách và các đồng chí phải bôn tẩu
sang Trung Quốc. Cũng như Loan và Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn, cuối cùng
hai người cũng tái hồi. Cụ Bách và nàng Loan của cụ cuối cùng cũng tái hồi.
Loan của cụ Bách tên là Hứa Bảo Liên, một cô gái xinh xắn, mau mắn, đánh bóng
bàn giỏi, người Hà Nội Việt gốc Hoa, thường vào nhà thương làm thiện nguyện và
quen chàng sinh viên y khoa Nguyễn Tường Bách trẻ tuổi, đẹp trai, tài hoa, đàn
hay, nhẩy giỏi, học giỏi, ở đó. Như vừa trình bày ở trên, khi cụ Bách chia tay
với cô Hứa Bảo Liên trong chiến khu hai người không một hứa hẹn gì. Chính
trường chưa rõ nét mà cuộc đời của chàng Dũng Nguyễn Tường Bách thì vô định,
sống nay chết mai, ai biết được đường tên mũi đạn. Sau khi lên thăm giã từ
chàng thanh niên bác sĩ Nguyễn Tường Bách tại chiến khu của VNQDĐ tại Việt Trì,
cô Hứa Bảo Liên lên đường sang du học bên Côn Minh, Trung Quốc. Sự giã từ đã
tưởng như vĩnh viễn. Nhưng cuộc tái ngộ bất ngờ của hai người được nàng Loan
Hứa Bảo Liên kể lại ở trang 91 cuốn hồi ký “Nguyễn Tường Bách và Tôi” như sau:
“Một
buổi chiều mùa thu vào cuối tuần, tôi vội vàng ra trường để cùng các anh Tam
(Nhất Linh), Long (Hoàng Đạo) và các anh em khác ra ga Côn Minh…Mọi người đang
đứng đợi. Mãi lâu mới có một đoàn xe lửa từ từ tiến vào trong ga. Chuyến xe này
từ Khai-Viễn tới. Tất cả mọi người đều chăm chú nhìn những hành khách đang
xuống xe. Mãi sau có một anh chỉ cho mọi người nhìn theo, đằng xa có một toán
người ăn mặc giống nhau, với những bộ đồ mầu xanh đã bạc. Trên vai người nào
cũng đeo một túi vải và chiếc bi -đông đựng nước. Tất cả đều gầy, đen và trông
có vẻ mệt mỏi so với những hành khách khác. Anh Bách gầy hơn hết, và đen rạm
đến khó nhận ra. Được cái anh vẫn điềm tĩnh vui vẻ bắt tay mọi người. Cuối cùng
tất cả đều vui mừng trở về trụ sở. Túi vải anh không có gì đáng giá, ngoài vài
bộ quần áo thay đổi, áo len cũng không có. Trên tay anh có chiếc đồng hồ cũ và
chiếc nhẫn tôi tặng cho anh trước kia, có lẽ là vật đáng giá nhất mà anh đã đem
theo.” Hình ảnh tái ngộ bất ngờ của Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và người yêu tại
một sân ga xa xôi, giữa thời chinh chiến, mang đậm nét lãng mạn cách mạng của
Dũng và Loan trong tiểu thuyết của Nhất Linh, Tự Lực Văn Đoàn.
Thế
là một giai đoạn đầy biến động của lịch sử đất nước đã sang trang với sự thất
bại của đoàn quân Việt Quốc. Đó là năm 1946 với sự tan rã của chính phủ Liên
Hiệp Quốc Cộng. Khi được tôi và bác sĩ Nguyễn Tường Giang con cụ Thạch Lam hỏi,
“Trong đời chú điều gì làm chú hối tiếc nhất?” thì không ngập ngừng cụ trả lời
ngay: “Chú hối tiếc nhất là vào thời điểm 1945, các chú chỉ chậm chân 15 phút
để rồi cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài cho mãi tới thế hệ các cháu ngày nay.”Khi
nói tới sự chậm chân 15 phút, ý cụ muốn nói tới việc Phe Quốc Gia đã không
quyết liệt để có chủ trương cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim để
rồi chỉ trong 15 phút bất ngờ Phe Cộng Sản đã biến cuộc biểu tình ủng hộ chính
quyền Trần Trọng Kim, ăn mừng nước nhà độc lập khỏi ách thực dân Pháp và Nhật,
thành một cuộc biểu tình cướp chính quyền của phe họ.
Theo
hồi ký của Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, nxb Văn Hoá, Houston, 1996, thì Bác sĩ Chữ
lúc đó là đại diện chính phủ Trần Trọng Kim đã từ chối đề nghị của quân
Nhật dẹp loạn Việt Minh. Ngoài ra trong một bài phát biểu tại Đại Hội Toàn Đảng
Đại Việt năm 1998, tại San Jose, California, USA, ông Hoàng Nhật Tiến, đảng
viên niên trưởng (sau này, năm 2006 là chủ tịch Đảng) đã tiết lộ rằng, Cụ
Trương Tử Anh, lãnh tụ chung của các đảng quốc gia, đã dè dặt không muốn cướp
chính quyền Hà nội nhân ngày công chức biểu tình 19/8/1945 mặc dù các đảng viên
các đảng phái quốc gia đã hết sức thuyết phục. Sự thiếu quyết liệt của các đảng
phái Quốc Gia đã mang lại cơ hội cho Cộng Sản chiếm được chính nghĩa trước nhân
dân.
Thực
ra, Việt Minh Cộng Sản không đủ cán bộ để làm cuộc biểu tình đông như vậy, họ
chỉ cướp công và giấu mặt cộng sản để cướp chính nghĩa mà thôi. Tâm sự tiếc
nuối của cụ Nguyễn Tường Bách đã được mô tả ngắn gọn trong tựa đề của một bài
phỏng vấn cụ Bách đăng trên tuần báo Saigon USA của Luật Sư Nguyễn Tâm xuất bản
tại San Jose, California, Hoa Kỳ ngày 11-1-1999; tựa đề đó là: “Lỡ Một Bước,
Hận Ngàn Thu”.
Năm
1946 Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và các đồng chí của ông đã một lần thất bại trước
đối thủ Võ Nguyên Giáp và phe Cộng Sản và phải bôn tẩu sang Trung Quốc. Năm
2013, trong một trận “quyết đấu tay đôi”, vì cả hai phe giờ chỉ còn hai cụ, một
lần nữa Bác sĩ Nguyễn Tường Bách lại thất bại trước cụ Võ Nguyên Giáp khi phải
ra đi sang bên kia thế giới, trong khi cụ Võ Nguyên Giáp vẫn còn ở lại, dù phải
mang ống thở.
Cuộc
chiến Quốc Cộng thế hệ 1945 như vậy chính thức đã kết thúc. Nhưng cuộc chiến
giữa những người Quốc gia, được hiểu là những người tranh đấu cho dân chủ và
nhân quyền, và những đảng viên Cộng Sản mù quáng vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên
khác với thời kỳ ba mươi năm chiến tranh 1945-1975, cuộc chiến Quốc Cộng hiện
nay đang diễn ra với phần áp đảo nghiêng về phe đấu tranh cho dân chủ và nhân
quyền. Mặc cho trước mắt, phe Cộng Sản cầm quyền còn đang hung hãn, nhưng sự
hung hãn hiện nay của phe Cộng Sản cầm quyền chỉ như sự vùng vẫy của con thú
đang lâm vào đường cùng không lối thoát.
©
Nguyễn Tường Tâm
©
Đàn Chim Việt
———————————————-
(1) http://www.hocxa.com/VanHoc/KhaiHung/KHung&NLinhtrongthoHKieu_QuocNam.php ; Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền Kiêu
(1) http://www.hocxa.com/VanHoc/KhaiHung/KHung&NLinhtrongthoHKieu_QuocNam.php ; Khái Hưng và Nhất Linh trong thơ Huyền Kiêu
-Hồi
Ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua cuốn I của Nguyễn Tường Bách.
-Hồi Ký về Gia Đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế
(2): Nhân Văn Giai Phẩm-tác giả Thụy Khuê-nhà xuất bản Tiếng Quê Hương Virginia-ấn bản 2012
(3): http://www.viet-studies.info/TDThao/NTNhat_TDThao_NKVien.htm
Đăng trên VieTimes-10-11-12/10/2007-Chuyện người vợ “duy nhất” của… hai học giả lớn Việt Nam
-Ấn bản ngày 24-6-2013 này khác với ấn bản đã được công bố ngày 19-6-2013.
-Hồi Ký về Gia Đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế
(2): Nhân Văn Giai Phẩm-tác giả Thụy Khuê-nhà xuất bản Tiếng Quê Hương Virginia-ấn bản 2012
(3): http://www.viet-studies.info/TDThao/NTNhat_TDThao_NKVien.htm
Đăng trên VieTimes-10-11-12/10/2007-Chuyện người vợ “duy nhất” của… hai học giả lớn Việt Nam
-Ấn bản ngày 24-6-2013 này khác với ấn bản đã được công bố ngày 19-6-2013.
------------------------------
No comments:
Post a Comment