Monday, 13 August 2012

VIỆT NAM THIẾU LÃNH ĐẠO (Nguyễn Hưng Quốc)




13.08.2012

Sau khi viết bài ' Thiếu lãnh đạo' tôi đọc được một bài viết khá thú vị và sâu sắc về cùng đề tài của nhà báo Trương Duy Nhất ở trong nước, “Hun Sen & câu chuyện ý thức nguyên thủ”.

Trong bài ấy, Trương Duy Nhất nhắc đến bài diễn văn kéo dài năm giờ 20 phút trước Quốc Hội và được truyền hình trực tiếp cho cả nước nghe của Thủ tướng Campuchia Hun Sen vào ngày 9/8/2012. Bài diễn văn có nội dung chính là những tranh chấp biên giới giữa Việt Nam và Campuchia; và nhắm đến mục đích chính là nhằm phản bác những sự phê phán của phe đối lập và nhằm giải thích với dân chúng về những vấn đề liên quan đến biên giới giữa hai nước. Trương Duy Nhất không bàn đến nội dung bài diễn văn ấy. Ông chỉ chú ý đến cách hành xử của Hun Sen: dù vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia không phải, hoặc chưa phải là một vấn đề lớn, nhưng trước sự quan tâm và bức xúc của dân chúng, hoặc ít nhất, một số dân chúng, ông đã chọn một thái độ dứt khoát và đầy trách nhiệm là đối thoại một cách công khai. Rồi Trương Duy Nhất so sánh với tình hình Việt Nam. Ông viết:
x
Description: http://gdb.voanews.eu/A6D2B661-83E5-496F-9FA3-1AF610A093AE_w640_r1_s.jpg
Thành phố Tam Sa được thiết lập trên một hòn đảo mà Việt Nam và Đài Loan cùng tuyên bố có chủ quyền
​​Bin Đông sc sôi. Hoàng Sa và mt phn Trường Sa b nut chng. Trung Quc ngang ngược thành lp chính quyn Tam Sa, đưa quân đồn trú và thành lp Bộ tư lệnh Tam Sa. Trên 2 vạn tàu cá Trung Quốc cùng với 100 máy bay chiến đấu ùn ùn tràn xuống biển Đông. Trên mặt trận ngoại giao, vừa thò tay phá hỏng hội nghị Asean Phnom Penh, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì lại đang tiếp tục chuyến ngoại giao con thoi đến Indonesia, Brunei và Malaysia với mục tiêu không gì khác ngoài câu chuyện biển Đông. Trong nước, dân tình nổi giận. Nhân sĩ trí thức đệ đơn đòi nhà nước cho phép tổ chức biểu tình. Nhưng đảng, nhà nước, chính phủ, quốc hội tất thảy đều im lặng, chưa nghe ai nói gì. Hay tại cái cơ chế mình không phân rạch được ai là người đứng đầu? Nếu thế thì cũng phải đại diện một ông thay mặt đứng lên nói rõ thái độ hành động trước dân chứ? Chẳng lẽ từ Tổng Bí thư đến Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng, không ông nào được như Hun Sen?”

Cuối cùng, Trương Duy Nhất đặt vấn đề:

“Lâu nay ta luôn đòi hỏi và kêu gào quá nhiều ở ý thức công dân, nhưng đã khi nào giật mình hỏi ngược ở ý thức lãnh tụ? Trước những thời khắc hiểm nguy, trước những tình huống khẩn cấp, trước những sự thể nóng bỏng, người lãnh tụ cần biết mình phải làm gì. Chưa dám nhìn đâu xa. Một động thái như cái lão láng giềng Hun Sen kia cũng không thấy được sao? Hay thật sự cái đảng này, nhà nước này, chính phủ này không có người đứng đầu?”

Trước đây, bộ máy tuyên truyền của nhà nước Việt Nam luôn luôn làm ồn ào về vai trò “tiên phong” của Việt Nam: Tiên phong trong việc đánh đổ chủ nghĩa thực dân và là nước thuộc địa đầu tiên chiến thắng đế quốc Pháp (1954); sau đó, lại tiên phong trong việc đánh đổ chủ nghĩa thực dân mới và là nước đầu tiên chiến thắng “đế quốc Mỹ” (1975); rồi sau đó nữa, đi tiên phong trong việc chống lại bá quyền Trung Quốc và đã chiến thắng không những bọn đàn em của Trung Quốc (Khmer Đỏ, 1978) mà cả chính bản thân Trung Quốc nữa (1979).

Vậy mà, lần này, trong trận chiến đương đầu với Trung Quốc vào năm 2012 này, Việt Nam không những không còn đi tiên phong mà còn dường như hoàn toàn lánh mặt trên mọi trận địa.

Xin lưu ý là lần này Trung Quốc không những khiêu khích một mình Việt Nam mà còn khiêu khích rất nhiều quốc gia khác ở châu Á, kể cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Riêng với con đường lưỡi bò và những hòn đảo cũng như quần đảo liên quan đến con đường lưỡi bò ấy, Trung Quốc khiêu khích ít nhất là năm quốc gia: Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam. Nếu con đường lưỡi bò của Trung Quốc biến thành hiện thực, trong số năm quốc gia này, nước bị mất mát nhiều nhất chính là Việt Nam. Nhiều cả về số lượng đảo lẫn về vùng biển, và cùng với cả hai, số lượng tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả dầu khí dưới đáy biển. Trong tình thế đó, ai cũng nghĩ đáng lẽ Việt Nam sẽ là quốc gia đi tiên phong trong trận chiến chống lại âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.

Nhưng không phải.

Cho đến nay, quốc gia đi tiên phong lại là Philippines.
x
Description: http://gdb.voanews.eu/234EDE7B-20F2-4B9B-BC38-C926F5984D52_w640_r1_s.jpg
Ảnh chụp ngày 20 Tháng 7, 2012 cho thấy đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc gần Bãi đá Vĩnh Thử thuộc quần đảo Trường Sa, đi kèm đoàn tàu cá là tàu hộ tống có trọng tải 3.000 tấn và một tàu của chính phủ làm công tác bảo vệ
​​M các trang báo thời sự, kể cả các báo chính thống ở Việt Nam, chúng ta dễ dàng thấy ngay nước chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc một cách mạnh mẽ và quyết liệt nhất bao giờ cũng là Philippines. Trung Quốc đưa tàu đánh cá đến bãi Scarborough/Hoàng Nham, Philippines điều tàu chiến ra bắt; Trung Quốc điều tàu hải giám đến, Philippines vẫn cương quyết đối đầu. Khi Trung Quốc công bố quyết định lập cơ sở đồn trú trên thành phố Tam Sa (bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), dù không có liên hệ gì đến các vùng tranh chấp với Philippines, Bộ Ngoại giao Philippines vẫn triệu tập đại sứ Trung Quốc đến để phản đối. Philippines cũng là nước xông xáo nhất trong việc mang Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về âm mưu xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của các nước khác. Philippines cũng lại là nước tích cực nhất trong việc vận động các ngoại trưởng khối ASEAN thông qua bản thông cáo chung kêu gọi Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của họ trên bãi Scarborough/Hoàng Nham tại cuộc họp ở Campuchia vào giữa tháng 7 vừa qua. Philippines cũng lại là nước duy nhất kêu gọi dân chúng đoàn kết trong việc chống lại âm mưu bá quyền của Trung Quốc và cho phép dân chúng tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ chống lại các hành động gây hấn của Trung Quốc. Philippines cũng lại là nước đầu tiên thành lập được các liên minh quân sự rộng lớn, bao gồm cả Mỹ, trong thế trận bảo vệ chủ quyền của họ.

Về phương diện ngoại giao, Philippines là nước đầu tiên giành được sự ủng hộ của thế giới trong việc giành lại tên gọi đích thực của vùng biển thuộc về mình: Đó là Biển Tây Philippines (the West Philippine Sea) chứ không phải là Nam Trung Hải (South China Sea) như Trung Quốc thường gọi và muốn mọi người công nhận (Xin lưu ý là chính Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton cũng đã dùng chữ “the West Philippine Sea trong các bài diễn văn chính thức của mình. Trong khi đó thì chữ “Biển Đông” của Việt Nam vẫn hoàn toàn vắng mặt trên thế giới: Nó chỉ phổ cập trong người Việt, thậm chí, một số người Việt vì ngay cả trên một số cơ quan báo chí cũng như du lịch ở Việt Nam, thỉnh thoảng người ta vẫn cứ gọi biển của mình là South China Sea!)

Ngay trên mặt trận ngoại giao, người cứu nguy cho ASEAN trong mặt trận chống lại Trung Quốc trong tháng 7 vừa qua cũng là ngoại trưởng Indonesia chứ không phải là ngoại trưởng Việt Nam. Khi cuộc hội nghị lần thứ 45 của ngoại trưởng 10 nước ASEAN tại Campuchia kết thúc mà không đạt được một thông báo chung nào (do sự phá đám của Campuchia theo sự giật dây của Trung Quốc), khối ASEAN đối diện với nguy cơ chia rẽ, và từ đó, yếu thế nghiêm trọng. Ngoại trưởng Việt Nam vẫn án binh bất động. Chỉ có các ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa, ngoại trưởng Malaysia Amifah Haji và ngoại trưởng Singapore K. Shanmugan là tích cực hoạt động để thay đổi tình hình.
x
Description: http://gdb.voanews.eu/42B79C21-57CF-4964-A756-387D964184EE_w640_r1_s.jpg
Ngoại trưởng Indonesia Marty Natelagawa
​​Ni bt nht là ngoi trưởng Indonesia, ông Natalegawa, người chy đôn chy đáo, t Kuala Lumpur đến Hà Nội, Vientaine, Manila để bàn luận về một bản thông báo chung nêu lên sáu nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông. Cuối cùng, bản thông cáo chung ấy được thông qua. Với thành tích ấy, Indonesia trở thành người dẫn đầu trên mặt trận chống âm mưu bành trướng của Trung Quốc trong khối ASEAN dù Indonesia là quốc gia ít bị ảnh hưởng nhất bởi con đường lưỡi bò!

Trên mọi mặt trận, như vậy, Việt Nam vẫn chìm nghỉm. Vai trò tiên phong: Không có. Ngay cả sự hiện diện cũng dường như không.

Lạ.

*
*

12.08.2012

Việt Nam thiếu nhiều thứ. Về kinh tế: rất nhiều người thiếu công ăn việc làm; phần lớn dân chúng thiếu tiền bạc, thiếu cả những nhu cầu cần thiết nhất cho một cuộc sống bình thường. Về xã hội, thiếu sự ổn định và không có bảo đảm gì cho tương lai cả. Về giáo dục, thiếu trường tốt và thầy cô giáo tốt; thiếu một chương trình cũng như một cơ chế giảng dạy hợp lý và hiệu quả; thiếu không khí tốt lành để đạo đức và học thuật được phát triển. Về chính trị, cũng thế, nhìn đâu cũng thấy thiếu: thiếu dân chủ, thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu minh bạch, v.v.

Nhưng ở đây, tôi chỉ tập trung vào một cái thiếu mà tôi cho là quan trọng nhất trong tình hình hiện nay: thiếu lãnh đạo.

Nhận định ấy, thoạt nghe, dễ có cảm tưởng như nghịch lý. Trên nguyên tắc, Việt Nam được lãnh đạo bởi đảng Cộng sản, mà đảng Cộng sản hiện nay lại có đến 3,6 triệu đảng viên. Số đảng viên ấy lại được lãnh đạo bởi 175 ủy viên trong Ban chấp hành Trung ương. Số ủy viên ấy lại được lãnh đạo bởi 14 người trong Bộ chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất của đảng đồng thời của cả nước. Rõ ràng đó là một con số khổng lồ cho thành phần lãnh đạo một đất nước. Ở các nước dân chủ, chẳng hạn ở Mỹ hay ở Úc, nói đến giới lãnh đạo, người ta chỉ kể đến Tổng thống, Phó tổng thống (ở Úc là Thủ tướng và Phó thủ tướng), nội các và vài người lãnh đạo trong Quốc Hội. Hết. Tổng cộng, nhiều lắm là 20-30 người.

Tuy vậy, nhìn vào thực tế, đặc biệt những năm gần đây, điều hầu như ai cũng thấy là Việt Nam hoàn toàn thiếu lãnh đạo. Tất cả, từ Bộ chính trị đến Trung ương đảng, từ chính phủ đến Quốc hội, ngồi đó, thật nhiều; mặt mày ai cũng hồng hào phè phỡn, nói năng như thánh phán, nhưng lại không có ai thực sự lãnh đạo cả.

Lãnh đạo chứ không phải quản lý.

Quản lý là làm cho guồng máy chạy đều và chạy tốt, ít nhất trong từng thời điểm nhất định. Lãnh đạo là định hướng cho cả guồng máy ấy vượt qua các thử thách trong hiện tại cũng như trong tương lai để bảo đảm sự an toàn cũng như sự tốt đẹp không phải chỉ trong một hai năm tới mà trong cả nhiều thập niên tới. Không phải chỉ cho thế hệ này mà còn cho các thế hệ kế tiếp.

Ai cũng biết, từ mấy năm nay, một trong những thử thách nghiêm trọng nhất đối với Việt Nam là vấn đề quan hệ với Trung Quốc. Các chính sách về lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc là một đe dọa trực tiếp đối với chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Không những chỉ có chính sách hay lời nói. Sự đe dọa được thể hiện cụ thể bằng hành động: Trung Quốc cho xây dựng các cơ sở hành chính và quân sự trên các hòn đảo vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam; cho khai thác dầu khí trên lãnh hải Việt Nam; ngăn chận các công ty ngoại quốc ký kết hợp đồng điều tra và khai thác dầu khí do Việt Nam tổ chức ngay trong các vùng được xem là đặc quyền kinh tế của Việt Nam; bắt bớ, thậm chí, giết chết các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt cá ở trong vùng lãnh hải của Việt Nam. Một số người Trung Quốc, thuộc giới học giả cũng như giới quân sự, có khi khá cao cấp, thỉnh thoảng bắn tiếng về một cuộc tấn công có quy mô lớn nhắm vào Việt Nam. Đó là chưa kể đến các âm mưu lũng đoạn kinh tế, xã hội và chính trị của Trung Quốc. Công nhân Trung Quốc, từ hợp pháp đến bất hợp pháp, tràn lan ở Việt Nam, ngay ở những địa điểm được xem là có ý nghĩa chiến lược về quân sự. Có thể nói hiện nay Trung Quốc là nguy cơ lớn nhất, nếu không muốn nói là duy nhất của Việt Nam.

Thật ra, ngoài Việt Nam, âm mưu bành trướng của Trung Quốc là một đe dọa đối với rất nhiều nước khác. Trong các nước ấy, xa và lâu dài nhất, là Mỹ; gần và cụ thể nhất là một số nước thuộc châu Á, từ Nhật Bản đến Phi Luật Tân, Hàn Quốc, Malaysia, Brunei, nhưng đặc biệt, trầm trọng nhất là Việt Nam. Có ba lý do chính: Một, nước có số đảo tranh chấp nhiều nhất là Việt Nam; hai, nếu con đường chữ U thành hiện thực, nước bị ảnh hưởng nặng nhất cũng là Việt Nam; và ba, Việt Nam là nước duy nhất có chung biên giới với Việt Nam. Nếu Trung Quốc chọn một quốc gia nào đó trong khu vực để tấn công nhằm hợp thức hóa, bằng bạo lực, con đường chữ U, nhằm biểu dương sức mạnh và nhằm uy hiếp tất cả các nước khác, nước ấy chắc chắn sẽ là Việt Nam.

Tất cả những điều ấy, hầu như ai cũng biết. Cả thế giới đều biết. Người Việt, nếu có chút sáng suốt, cũng đều biết. Biết, nên mọi người đều chờ đợi một chính sách nhất quán và hiệu quả từ giới lãnh đạo. Tuy nhiên, cho đến nay, giới lãnh đạo lại chọn một biện pháp dễ dãi nhất là né tránh việc công bố bất cứ một chính sách nào, nghĩa là, nói cách khác, né tránh chính việc lãnh đạo của mình.

Trong các diễn văn, giới cầm quyền chỉ nói những nguyên tắc chung chung và sáo rỗng như hợp tác và hữu nghị, như hai phương châm gọi là “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) và “16 chữ vàng” (Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) do Giang Trạch Dân đưa ra vào năm 1999. Hết. Nhưng đó chỉ là nguyên tắc và phương châm. Trong chính trị, từ những nguyên tắc và phương châm chung chung như vậy, người ta cần đặt ra ít nhất bốn vấn đề khác: Một, những nguyên tắc và phương châm ấy có còn hợp thời và hợp lý hay không; hai, nếu còn, làm cách nào để thực hiện chúng, đặc biệt trước những khiêu khích và đe dọa thường xuyên, hơn nữa, càng ngày càng tăng của Trung Quốc, một kẻ rõ ràng không phải là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt”; ba, nếu không, Việt Nam cần có chính sách gì để đối phó với những hành động khiêu khích và đe dọa, thậm chí, âm mưu thôn tính của Trung Quốc; và bốn, cần có những chiến thuật gì để hiện thực hóa chiến lược ấy?

Đó là những câu hỏi bình thường ai cũng đặt ra. Với tất cả, giới cầm quyền Việt Nam đều im lặng. Theo dõi các động thái của họ, người ta cũng không tìm được một câu trả lời nào cả. Được xem là có quyền lực nhất trong Bộ chính trị và trong đảng hiện nay là ba người: ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư; ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng; và ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước. Có cảm tưởng như có một sự phân công nào đó giữa họ với nhau: Nguyễn Tấn Dũng thì lo chuyện đối nội; Nguyễn Phú Trọng thì ngọt ngào ve vuốt Trung Quốc; còn Trương Tấn Sang thì đi tìm một số đồng minh khác để cân bằng lực lượng với Trung Quốc. Có vẻ thế. Nhưng điều đó, nếu có thật, cũng không thực sự là lãnh đạo. Bởi lãnh đạo của một đảng cũng như của một nước, nhất là khi đảng ấy lại là đảng cầm quyền duy nhất, cần có một tiếng nói chung; hoặc ít nhất, một tiếng nói có nhiều sức nặng, có ảnh hưởng và có khả năng chi phối guồng máy đảng và nhà nước nhất. Ở Việt Nam, tiếng nói chung: không có. Tiếng nói nổi bật nhất: cũng không có. Những gì ông Nguyễn Phú Trọng nói, người ta xem như ngớ ngẩn (xin nhớ lại bài nói về chủ nghĩa xã hội của Nguyễn Phú Trọng tại Cuba vào ngày 10/4/2012). Những gì ông Nguyễn Tấn Dũng nói thì lại không còn chút uy tín gì vì từ lâu ông bị xem là nói một đàng làm một nẻo (đặc biệt qua các vụ án tham nhũng cũng như các vụ lỗ lã nặng nề của các công ty quốc doanh). Còn ông Trương Tấn Sang thì bị xem là không có quyền lực thực sự: Vai trò của Chủ tịch nước Việt Nam, từ xưa đến nay, vốn chỉ là một hư vị. Chỉ có ý nghĩa tượng trưng.

Thành ra, dù có chăm chú lắng nghe và theo dõi lời nói cũng như hoạt động của cả ba người đứng đầu đảng và chính phủ Việt Nam hiện nay, người ta cũng không thể biết là họ muốn gì.

Họ, với tư cách tập thể cũng như với tư cách cá nhân, hoàn toàn không đưa ra một chính sách nào cả. Không đưa ra một viễn kiến nào cả. Nghĩa là, nói tóm lại, không thể hiện bất cứ một sự lãnh đạo nào cả.

Họ hoàn toàn né tránh bài toán hóc búa nhất hiện nay.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.





No comments:

Post a Comment

View My Stats