Nguyễn Mạnh Trinh
31.07.2012
http://www.voatiengviet.com/content/thu-phac-hoa-vai-chan-dung-tac-gia-goc-viet/1452158.html
Thời gian gần đây, đã có nhiều tác giả gốc Việt hòa nhập được vào dòng chính của văn học những quốc gia mà họ cư ngụ. Ở Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Úc, tên tuổi của nhiều tác giả gốc Việt Nam được nhắc nhở tới và xếp vào nhánh văn học di dân. Nhiều tác phẩm của họ được giới phê bình và nhận định văn học bản xứ chú ý. Hơn thế nữa, họ còn đoạt nhiều giải thưởng văn học để thành những tác giả nổi tiếng. Với văn học của quốc gia bản xứ, họ được kể là những thành viên. Nhưng, với văn học Việt Nam ở hải ngoại, thì sao? Chúng ta có thể kể những tác giả này trong sinh hoạt văn học được không? Dù rằng họ không viết và sáng tác bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, nhưng nguồn gốc dân tộc đã ảnh hưởng không ít vào nhận thức của họ để biểu hiện trong tác phẩm. Có sự ví von, họ viết bằng trái tim Việt Nam.
Trong ý nghĩ của cá nhân riêng tôi, có lẽ đi tìm căn cước của những tác giả này là phương cách tốt nhất để trả lời câu hỏi trên. Nhà văn gốc Việt Nam? Là ai? Thế hệ nào? Nguồn gốc? Sinh sống? Gia đình? Học vấn? Tâm tư? Những thắc mắc tuy có tính tò mò nhưng cũng khá cần thiết để có thể phác họa những chân dung văn chương có tính xác thực và biểu trưng được những nếp nghĩ nếp sống khá đặc biệt không những với người Việt Nam mà còn với người bản xứ nữa.
Nhìn vào sinh hoạt văn chương ở Hoa Kỳ, như một tiêu điểm, với các tác giả và tác phẩm viết bằng Anh ngữ, cũng có nhiều ghi nhận từ những hoạt động mới đầu thưa thớt nhưng dần dần đã có nhiều đóng góp. Ở thế hệ thứ nhất, chỉ có vài góp mặt tượng trưng. Một vài cuốn sách được in, có cuốn được dư luận báo chí và phê bình bản xứ để ý tới vì chính trị hơn là tự thân giá trị tác phẩm. Một ví dụ, như tác phẩm của Lệ Lý Hayslip...
Nhưng ở thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai, họ đã có nhiều đóng góp. Lớn lên và chịu ảnh hưởng của đời sống xứ người nhưng họ đã viết với tâm thức Việt Nam. Dù không mang nặng trên vai những dư ảnh của quá khứ nhưng họ vẫn là sự nối tiếp của thế hệ thứ nhất với nỗ lực gây dựng lại cuộc sống mới ở xứ sở mà họ trưởng thành ở xứ người.
Thời gian gần đây, đã có nhiều tác giả gốc Việt hòa nhập được vào dòng chính của văn học những quốc gia mà họ cư ngụ. Ở Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Úc, tên tuổi của nhiều tác giả gốc Việt Nam được nhắc nhở tới và xếp vào nhánh văn học di dân. Nhiều tác phẩm của họ được giới phê bình và nhận định văn học bản xứ chú ý. Hơn thế nữa, họ còn đoạt nhiều giải thưởng văn học để thành những tác giả nổi tiếng. Với văn học của quốc gia bản xứ, họ được kể là những thành viên. Nhưng, với văn học Việt Nam ở hải ngoại, thì sao? Chúng ta có thể kể những tác giả này trong sinh hoạt văn học được không? Dù rằng họ không viết và sáng tác bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, nhưng nguồn gốc dân tộc đã ảnh hưởng không ít vào nhận thức của họ để biểu hiện trong tác phẩm. Có sự ví von, họ viết bằng trái tim Việt Nam.
Trong ý nghĩ của cá nhân riêng tôi, có lẽ đi tìm căn cước của những tác giả này là phương cách tốt nhất để trả lời câu hỏi trên. Nhà văn gốc Việt Nam? Là ai? Thế hệ nào? Nguồn gốc? Sinh sống? Gia đình? Học vấn? Tâm tư? Những thắc mắc tuy có tính tò mò nhưng cũng khá cần thiết để có thể phác họa những chân dung văn chương có tính xác thực và biểu trưng được những nếp nghĩ nếp sống khá đặc biệt không những với người Việt Nam mà còn với người bản xứ nữa.
Nhìn vào sinh hoạt văn chương ở Hoa Kỳ, như một tiêu điểm, với các tác giả và tác phẩm viết bằng Anh ngữ, cũng có nhiều ghi nhận từ những hoạt động mới đầu thưa thớt nhưng dần dần đã có nhiều đóng góp. Ở thế hệ thứ nhất, chỉ có vài góp mặt tượng trưng. Một vài cuốn sách được in, có cuốn được dư luận báo chí và phê bình bản xứ để ý tới vì chính trị hơn là tự thân giá trị tác phẩm. Một ví dụ, như tác phẩm của Lệ Lý Hayslip...
Nhưng ở thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai, họ đã có nhiều đóng góp. Lớn lên và chịu ảnh hưởng của đời sống xứ người nhưng họ đã viết với tâm thức Việt Nam. Dù không mang nặng trên vai những dư ảnh của quá khứ nhưng họ vẫn là sự nối tiếp của thế hệ thứ nhất với nỗ lực gây dựng lại cuộc sống mới ở xứ sở mà họ trưởng thành ở xứ người.
Có người cho rằng những tác
phẩm viết bằng ngoại ngữ như thế không thể kể ở trong dòng văn học Việt Nam hải
ngoại được. Lại có người cho rằng văn học Việt nam ở hải ngoại bị lão hóa và
dần dần mất đi cả người đọc lẫn người viết khi thế hệ thứ nhất tàn lụi đi.Những
người Việt viết văn bằng ngoại ngữ sẽ kế thừa dòng văn học đã được xây dựng và
phát triển từ năm 1975.
Giáo sư Huỳnh Sanh Thông, người chủ biên tạp chí The Vietnam Review khi giới thiệu về một tác phẩm tuyển chọn của những người Việt có tác phẩm viết bằng ngoại ngữ đã phát biểu đại ý: “Văn học của người Mỹ gốc Việt có tuổi đời rất trẻ trung. Nhưng từ khi có những sưu tập tác phẩm để phát hiện ra những tài năng văn học, chúng ta đã phải ngạc nhiên và rất bằng lòng với những tác phẩm chứa đựng những ý tưởng sâu sắc, những góc nhìn quan sát sinh động, có chút hóm hỉnh nhưng cũng có những bi đát đau buồn. Thực tại hiện hữu hay huyền ảo mơ mộng, người đọc tự tìm kiếm trong những sáng tác ấy những kinh nghiệm để đời của những người đi tìm những chân trời sống tuy mới bắt đầu gần ba chục năm nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là những biến cố kỳ lạ tưởng như không thể nào có trên trái đất này…”
Đọc những tác phẩm viết bằng ngoại ngữ của các tác giả Việt Nam, từ tiểu thuyết đến thơ ca, từ tiểu luận văn chương đến những ký sự có nét sinh động của đời sống, tất cả bàng bạc bản sắc của dân tộc. Dù là thế hệ sinh trưởng ở Việt Nam và lớn lên ở xứ người hay sinh trưởng và trưởng thành ở nơi định cư, dù cách biểu tỏ hoặc tình cảm có khác nhưng người đọc vẫn dễ dàng thấy được căn cước của người cầm bút. Căn cước của một người Việt mà chiến tranh đã qua rồi nhiều năm nhưng vẫn để lại những hậu quả hay những dấu hằn thời thế còn tươi rói.
Lấy một ví dụ, như trong tuyển tập Watermark Vietnamese Prose, với sự góp mặt của rất nhiều tác giả coi như một phần tiêu biểu cho văn chương của người Việt ở hải ngoại. Danh sách ấy gồm: Huỳnh Sanh Thông, Christian Langworthy, Dao Strom, Linh Đinh, Thuong Vuong Riddick, Monique T.D. Truong, Truong Tran, Mộng Lan, Quang Bao, Barbara Tran, Diep Khac Tran, Trac Vu, Minh Duc Nguyen, Nguyen ba Trac, le thi diem thuy, Maura Donohue, Andrew Lam, Trinh T. Minh Ha, Lan Cao, Bao Long Chu, Lan Duong, Nguyen Qui Đuc, Thanhha Lai. Đây là một công trình có chất văn học sử ghi chép lại sinh hoạt có nhiều chất khai phá và ở những thể loại trong lãnh địa đặc thù phong phú của nhưng bước chân tìm hiểu. Đọc những tác phẩm, là những khởi hành đi vào phiêu du trong thơ và văn của tuổi thơ dữ dội trong chiến tranh, của tâm tư ngổn ngang dằn vặt của buổi xây dựng đời sống lại ban đầu, của ngôn ngữ vang vọng từ phận đời trôi dạt, hay của khoảng cách không gian vời vợi đến nơi cố thổ, hoặc nỗi chết quen thuộc thuở nào từ những biến cố đổi thay. Có phản ánh cuộc sống, sinh động,. Có chuyên chở, nỗi niềm man mác. Ghi chép lại, bằng ngoại ngữ, những tâm cảm Việt Nam. Những cố gắng để đi vào văn chương dòng chính. Thế hệ tiếp theo đã có nhiều thành quả hội nhập. Nhưng trong tâm cảm vẫn là tâm cảm Việt nam, bàn bạc và tiềm ẩn.
Gia đình đã ảnh hưởng như thế nào đối với những người viết gốc Việt Nam? Có tác giả đã mang cuộc đời của người thân trong gia đình mình vào tác phẩm. Như Phạm Xuân Quang đã viết “A Sense of Duty”, một tác phẩm đầu tay của một người tị nạn đã trở thành một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từ những tác động ký ức liên quan đến số phận, niềm hy vọng cũng như những hậu quả phát khởi từ biến cố trong cuộc chiến Việt Nam. Là một người trẻ Việt thuộc thế hệ thứ hai trưởng thành ở Hoa Kỳ, anh biểu lộ tấm lòng tri ân với đất nước đả bảo bọc anh và đã tự mình tình nguyện gia nhập quân đội và trở thành một phi công trực thăng nối nghiệp người cha là một phi công khu trục của Không Quân Việt Nam. Cuộc trùng phùng giữa hai cha con sau một thời gian dài chia cách cũng là một yếu tố để anh có quyết định trên.
Năm 1964, người cha, phi công Phạm Văn Hòa của phi đoàn khu trục 514 bị phòng không Việt Cộng bắn trong khi đang yểm trợ tiếp cận cho bộ binh dưới đất. Được trực thăng Hoa Kỳ cứu cấp sau khi bị đáp ép buộc, ông trở về nhà đúng vào ngày sinh của đứa con trai ông, tên Quang. Sau đó ông lại tiếp tục những phi vụ oanh kích, thi hành bổn phận của một quân nhân trong thời binh lửa. Thâm tâm ông không muốn làm hành động của một anh hùng, nhưng ông hiểu nhiệm vụ của mình để hoàn tất những công việc ấy.
Trước khi Saigòn bị quân cộng sản xâm chiếm, trung tá Hòa chắc chắn rằng vợ con mình đã được di tản. Ông gửi vợ và mấy đứa con lên một chiếc C130 di tản đến Hoa Kỳ. Riêng ông ta không được may mắn. Ông bị ở lại và bị tù ngục hơn mười năm. Những trại khổ hình mà ông đã trải qua như Long Giao, Suối Máu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, toàn những nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Sau khi gần được phóng thích, Cộng Sản chuyển ông về trại Z0D ở Rừng Lá. Năm 1987, ông được thả về và năm năm sau ông được sang Hoa Kỳ gặp gỡ lại vợ con sau một thời gian sống nghẹt thở vì sự canh chừng của hệ thống công an khắc nghiệt và đa nghi.
Người con viết hồi ký về cuộc đời của cha mình và cũng là dịp để nhìn lại một cuộc chiến đã chấm dứt từ ba mươi năm nay. Qua bóng dáng của người cha, một thời lửa khói được kể lại. Và, tiếp nối, là người con của thế hệ tiếp theo. Không gian bao la nhưng vẫn nằm trong bàn tay người phi công. Tác phẩm, là hồi ký của một người con nhưng đa phần là hình bóng của người cha và những người đồng đội cũ. Cuộc chiến dù đã ba mươi năm qua, nhưng vẫn còn dư âm, tưởng như mới ngày nào
Cuốn sách mới xuất bản mà đã được sự chú ý rất nhiều. Nhật báo Los Angeles Times và Orange County Register đều có bài điểm sách. Tuần báo Publishers Weekly và tạp chí Orange Coast Magazine cũng giới thiệu đầy cảm tình và trang trọng. Nhiều tác giả nổi tiếng có nhiều hiểu biết về Việt Nam như Richard Pyle, như Larry Engelmann, như Robert Olen Butler, như James R. Reckner, cũng có những nhận xét xác đáng về tầm vóc cũng như giá trị của tác phẩm. Và, với người Việt Nam, những chính khách như Bùi Diễm, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Đức Nhã, cũng đã cho nhiều ý kiến đồng tình chia sẻ.
Giáo sư Huỳnh Sanh Thông, người chủ biên tạp chí The Vietnam Review khi giới thiệu về một tác phẩm tuyển chọn của những người Việt có tác phẩm viết bằng ngoại ngữ đã phát biểu đại ý: “Văn học của người Mỹ gốc Việt có tuổi đời rất trẻ trung. Nhưng từ khi có những sưu tập tác phẩm để phát hiện ra những tài năng văn học, chúng ta đã phải ngạc nhiên và rất bằng lòng với những tác phẩm chứa đựng những ý tưởng sâu sắc, những góc nhìn quan sát sinh động, có chút hóm hỉnh nhưng cũng có những bi đát đau buồn. Thực tại hiện hữu hay huyền ảo mơ mộng, người đọc tự tìm kiếm trong những sáng tác ấy những kinh nghiệm để đời của những người đi tìm những chân trời sống tuy mới bắt đầu gần ba chục năm nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là những biến cố kỳ lạ tưởng như không thể nào có trên trái đất này…”
Đọc những tác phẩm viết bằng ngoại ngữ của các tác giả Việt Nam, từ tiểu thuyết đến thơ ca, từ tiểu luận văn chương đến những ký sự có nét sinh động của đời sống, tất cả bàng bạc bản sắc của dân tộc. Dù là thế hệ sinh trưởng ở Việt Nam và lớn lên ở xứ người hay sinh trưởng và trưởng thành ở nơi định cư, dù cách biểu tỏ hoặc tình cảm có khác nhưng người đọc vẫn dễ dàng thấy được căn cước của người cầm bút. Căn cước của một người Việt mà chiến tranh đã qua rồi nhiều năm nhưng vẫn để lại những hậu quả hay những dấu hằn thời thế còn tươi rói.
Lấy một ví dụ, như trong tuyển tập Watermark Vietnamese Prose, với sự góp mặt của rất nhiều tác giả coi như một phần tiêu biểu cho văn chương của người Việt ở hải ngoại. Danh sách ấy gồm: Huỳnh Sanh Thông, Christian Langworthy, Dao Strom, Linh Đinh, Thuong Vuong Riddick, Monique T.D. Truong, Truong Tran, Mộng Lan, Quang Bao, Barbara Tran, Diep Khac Tran, Trac Vu, Minh Duc Nguyen, Nguyen ba Trac, le thi diem thuy, Maura Donohue, Andrew Lam, Trinh T. Minh Ha, Lan Cao, Bao Long Chu, Lan Duong, Nguyen Qui Đuc, Thanhha Lai. Đây là một công trình có chất văn học sử ghi chép lại sinh hoạt có nhiều chất khai phá và ở những thể loại trong lãnh địa đặc thù phong phú của nhưng bước chân tìm hiểu. Đọc những tác phẩm, là những khởi hành đi vào phiêu du trong thơ và văn của tuổi thơ dữ dội trong chiến tranh, của tâm tư ngổn ngang dằn vặt của buổi xây dựng đời sống lại ban đầu, của ngôn ngữ vang vọng từ phận đời trôi dạt, hay của khoảng cách không gian vời vợi đến nơi cố thổ, hoặc nỗi chết quen thuộc thuở nào từ những biến cố đổi thay. Có phản ánh cuộc sống, sinh động,. Có chuyên chở, nỗi niềm man mác. Ghi chép lại, bằng ngoại ngữ, những tâm cảm Việt Nam. Những cố gắng để đi vào văn chương dòng chính. Thế hệ tiếp theo đã có nhiều thành quả hội nhập. Nhưng trong tâm cảm vẫn là tâm cảm Việt nam, bàn bạc và tiềm ẩn.
Gia đình đã ảnh hưởng như thế nào đối với những người viết gốc Việt Nam? Có tác giả đã mang cuộc đời của người thân trong gia đình mình vào tác phẩm. Như Phạm Xuân Quang đã viết “A Sense of Duty”, một tác phẩm đầu tay của một người tị nạn đã trở thành một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từ những tác động ký ức liên quan đến số phận, niềm hy vọng cũng như những hậu quả phát khởi từ biến cố trong cuộc chiến Việt Nam. Là một người trẻ Việt thuộc thế hệ thứ hai trưởng thành ở Hoa Kỳ, anh biểu lộ tấm lòng tri ân với đất nước đả bảo bọc anh và đã tự mình tình nguyện gia nhập quân đội và trở thành một phi công trực thăng nối nghiệp người cha là một phi công khu trục của Không Quân Việt Nam. Cuộc trùng phùng giữa hai cha con sau một thời gian dài chia cách cũng là một yếu tố để anh có quyết định trên.
Năm 1964, người cha, phi công Phạm Văn Hòa của phi đoàn khu trục 514 bị phòng không Việt Cộng bắn trong khi đang yểm trợ tiếp cận cho bộ binh dưới đất. Được trực thăng Hoa Kỳ cứu cấp sau khi bị đáp ép buộc, ông trở về nhà đúng vào ngày sinh của đứa con trai ông, tên Quang. Sau đó ông lại tiếp tục những phi vụ oanh kích, thi hành bổn phận của một quân nhân trong thời binh lửa. Thâm tâm ông không muốn làm hành động của một anh hùng, nhưng ông hiểu nhiệm vụ của mình để hoàn tất những công việc ấy.
Trước khi Saigòn bị quân cộng sản xâm chiếm, trung tá Hòa chắc chắn rằng vợ con mình đã được di tản. Ông gửi vợ và mấy đứa con lên một chiếc C130 di tản đến Hoa Kỳ. Riêng ông ta không được may mắn. Ông bị ở lại và bị tù ngục hơn mười năm. Những trại khổ hình mà ông đã trải qua như Long Giao, Suối Máu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, toàn những nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Sau khi gần được phóng thích, Cộng Sản chuyển ông về trại Z0D ở Rừng Lá. Năm 1987, ông được thả về và năm năm sau ông được sang Hoa Kỳ gặp gỡ lại vợ con sau một thời gian sống nghẹt thở vì sự canh chừng của hệ thống công an khắc nghiệt và đa nghi.
Người con viết hồi ký về cuộc đời của cha mình và cũng là dịp để nhìn lại một cuộc chiến đã chấm dứt từ ba mươi năm nay. Qua bóng dáng của người cha, một thời lửa khói được kể lại. Và, tiếp nối, là người con của thế hệ tiếp theo. Không gian bao la nhưng vẫn nằm trong bàn tay người phi công. Tác phẩm, là hồi ký của một người con nhưng đa phần là hình bóng của người cha và những người đồng đội cũ. Cuộc chiến dù đã ba mươi năm qua, nhưng vẫn còn dư âm, tưởng như mới ngày nào
Cuốn sách mới xuất bản mà đã được sự chú ý rất nhiều. Nhật báo Los Angeles Times và Orange County Register đều có bài điểm sách. Tuần báo Publishers Weekly và tạp chí Orange Coast Magazine cũng giới thiệu đầy cảm tình và trang trọng. Nhiều tác giả nổi tiếng có nhiều hiểu biết về Việt Nam như Richard Pyle, như Larry Engelmann, như Robert Olen Butler, như James R. Reckner, cũng có những nhận xét xác đáng về tầm vóc cũng như giá trị của tác phẩm. Và, với người Việt Nam, những chính khách như Bùi Diễm, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Đức Nhã, cũng đã cho nhiều ý kiến đồng tình chia sẻ.
(Còn
tiếp một kỳ).
Nguyễn Mạnh Trinh
06.08.2012
Kỳ 2
Một tác giả Mỹ gốc Việt khác, Andrew Lam, cũng chịu ảnh hưởng rất nặng của truyền thống gia đình khi viết tiểu luận hoặc tiểu thuyết. Với “Perfums Dreams: Reflection on the Việt Nam diaspora” đã đoạt giải thưởng Beyons Margins 2006 của PEN American Center. Gần đây, Andrew Lam còn xuất bản tác phẩm “East eats West” mà theo như những nhận định của Wayne Karlin là “một tiểu luận về châu Mỹ xuất sắc nhất của thế hệ anh”. Là con trai của trung tướng Lâm Quang Thi nên hình ảnh oai hùng của người cha trong cuộc chiến vừa qua như một ấn tượng không thể nào quên trong tâm thức của Lam. Viết về bộ quân phục mà cha mình từng mặc, anh như trở lại những ấn tượng về nỗi đau xót của người cha khi mặc bộ quân phục lần chót trong buổi lễ hạ kỳ VNCH trên chiến hạm rồi thay bằng bộ đồ dân sự với quần kean và áo T-shirt và vứt khẩn súng ngắn khi trước luôn đeo bên mình xuống biển Thái Bình Dương.Rõ ràng một điều ở thế hệ anh, bắt đầu cuộc đời ở Hoa Kỳ lúc 10 tuổi, thì chiến tranh vẫn là những điều không thể nào quên.
Với tác phẩm đầu tay, Andrew Lâm đã được đón nhận khá nồng hậu từ văn chương dòng chính. Nhà văn Maxine Hong Kingston đã nhận xét về Perfume Dreams: “Lâm đã viết với sự trung thực của một ký giả chân chính và với xúc cảm mạnh mẽ của một người kể chuyện về nơi sinh thành của mình.”
Library Journal Review viết “Trong những tiểu luận phong phú đầy sức sống được tuyển chọn ấy, Lâm, một bỉnh bút có uy tín và một bình luận gia xuất sắc của National Public Radio, đã viết những nhận định làm nổ tung ra sự thực từ căn cước của những người được gọi là Việt kiều (những người Việt Nam sinh sống ở hải ngoại) định cư ở Hoa Kỳ. Ngày 28 tháng Tư năm 1975, cậu bé con 11 tuổi và gia đình rời khỏi Sài Gòn trên một chiếc vận tải cơ C-130 đông nghẹt người đúng hai ngày trước khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ khi quân Cộng sản tiến vào. Ngày ấy Lâm đã hiểu rằng đó là ngày bắt đầu ở Hoa Kỳ hồi sinh một cuộc đời mới. Cha của Lâm, một tướng lãnh của quân lực Nam Việt Nam, sau đó ít lâu, đoàn tụ với gia đình ở California, nơi mà họ bắt đầu làm lại cuộc đời từ đẳng cấp thấp nhất của xã hội và họ đã phải nỗ lực để hoàn thành giấc mộng Mỹ quốc. Nhìn ngắm sâu sắc chính mình và những người cùng trang lứa, Lâm đã tìm kiếm sự hôn phối giữa hai mảnh sống khác nhau và luôn luôn có những chuyện kể trái ngược.” Anh đã trích dẫn lời phê bình của nhà nghiên cứu văn hóa Edward Said là ông này đã minh chứng rằng một sự vượt quá giới hạn của quốc gia phải là một sự không thể từ chối mang theo quá khứ nhưng lại suốt đời vật vã quanh quẩn làm việc với nó. Lâm, người đã thừa nhận rằng mái ấm gia đình có thể mang theo từ đất nước mình. Khi người đó tìm thấy ở đó những tâm cảm tràn đầy từ những trang nhật ký của thái độ tự tìm kiếm để đến kết luận rằng một căn cước cá nhân sẽ không thể nào sửa chữa được nhưng nó sẽ mở rộng ra đến tận cùng.
Andrew Lâm trong tác phẩm của mình thường có hình ảnh những người thân trong gia đình. Thí dụ như trong “Notes of a Warrior's Son” hay “My Father's Army Uniform”. Những chi tiết đời sống có khi là sự thực của đời Lâm. Khi bắt đầu sống ở Hoa Kỳ vào lúc hơn 10 tuổi, Lâm đã chỉ nói tiếng Anh và không nói tiếng Việt. Cứ như thế khoảng 5 năm đầu tiên. Nhưng khi đến tuổi teen, anh lại bắt đầu ngạc nhiên và tìm hiểu về quá khứ của mình. Anh muốn giải thích lịch sử của chính mình qua cuộc sống. Vì thế, tác phẩm của anh bắt nguồn từ chính cuộc sống và nhận thức của anh phản ánh chính sự thực của một người tị nạn và phải cố gắng để hiện diện và có mặt trong một quốc gia đa văn hóa như Hoa Kỳ. Anh không chủ tâm đề cập đến chính trị và cũng không muốn tạo ra sự thương xót của người đọc qua những điều đã viết. Có thể trong đó, là hình ảnh thoáng qua của chiến tranh. Nhưng, phần đông là cuộc sống hiện tại, là những điều đang đến đang xảy ra với nhãn quan của một người nhạy cảm. Lâm muốn sáng tạo ra những khuôn mẫu nhân vật có thể bị thay đổi vì cuộc chiến nhưng không phải là nạn nhân. Anh chủ tâm làm sống lại những ký ức về cuộc chiến đã qua, với tầm nhìn của một người đang sống trong thời đại toàn cầu hóa, khi mà truyền thông đã thành những cây cầu liên lục địa nối liền những khoảng cách địa lý xa xôi.
Nam Lê là một nhà văn gốc Việt Nam vừa đoạt giải văn chương Dylan Thomas của Anh với lời khen tặng là “tác phẩm đầu tay có tính sáng tạo và nhiều cảm xúc”. Giải thưởng này dành cho những tác giả trẻ tuổi dưới 30 và có những tác phẩm đặc biệt nổi bật.
Đây là một trường hợp của tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại thành công một cách khá lý thú. Nam Lê được lựa chọn trong số năm tác giả trẻ nổi tiếng trên thế giới như tác giả Anh Ross Raisin (với God's Own Country), Edward Hogan (với Blackmoor), Caroline Bird (với Trouble Came to the Turnip) và tác gỉa sinh trưởng tại Nam Phi Ceridwen Dovey (với Blood kin) và tác giả người Ethopia Dinaw Mengestu (với Children of the Revolution).
Peter Florence, chủ tịch hội đồng tuyển chọn đã ca tụng Nam Lê như một “hiện tượng văn học tài ba” mà những tác phẩm biểu lộ những rực rỡ hiếm có đầy sinh khí ở cả hai trong lăng kính quan sát thực tế chủ thể và cả tính chất của nghệ thuật viết văn.
Tác phẩm đoạt giải là The Boat. Hiếm có một nhà văn nào, dù là người bản xứ viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ trong tác phẩm đầu tiên, được sự đón nhận của giới phê bình văn học trên thế giới như thế. The Boat là một tuyển tập 240 trang do nhà xuất bản Knopf gồm 7 truyện ngắn được coi như là một tác phẩm tuyệt hảo của năm 2008. Là người đoạt giải thưởng Pushcat Prize, Nam Le đã tập trung vào những chủ đề như sự dời đổi của cuộc sống con người, những hiểm nguy cũng như cái giá phải trả của cuộc sống trong những xoay chuyển của thời thế. 7 truyện ngắn là bảy đề tài khác nhau, thời gian khác nhau, tính chất khác nhau và môi trường địa lý cũng khác nhau. Những nhân vật ấy sống ở Hoa Kỳ, Úc, Colombia, Iran và Việt Nam có những nền văn hóa khác nhau, những cuộc sống khác nhau và tâm tư cũng khác nhau biểu lộ những mẫu nhân vật không thể trộn lẫn và cũng thật khó nhòa phai trong tâm tư người đọc.
Nhưng, Nam Le đã viết với căn cước của một người Việt Nam. Một truyện ngắn tiêu biểu là truyện ngắn đầu tiên của tuyển tập có nhan đề khá dài “Love and honour and pity and pride and compassion and sacrifice”. Bà Michiko Kakutani, một phê bình gia nồng cốt của mục điểm sách của The NewYork Times đã nhận xét đây là một truyện ngắn hay nhất của tập truyện này. Nhân vật chính trong truyện là một người có nhiều nét giống với tác giả, cũng tên Nam, cũng hành nghề luật sư ở Úc trước khi qua Mỹ để học trong lớp dạy viết văn tại đại học Iowa trong một học trình tương đương với những lớp cao học. Anh tuy đang học viết văn nhưng lại bị bế tắc khi sáng tác dù đã cố gắng thay đổi nhiều phương cách, tỉ dụ như thay vì dùng máy computer thì lại dùng máy chữ bởi vì viết bằng máy computer có thể sửa chữa được nên không có sự chú tâm còn viết với máy đánh chữ thì không thể bôi xóa sửa chữa nên dễ dàng để tập trung tâm lực hơn. Trong khi ngày thi gần kề Nam phải hoàn tất một truyện ngắn có tính quyết định của khóa học trong vòng ba ngày mà trang giấy còn trắng nguyên. Khi đang chấm bài cho sinh viên thì lại nhận được tin cha anh sẽ đến thăm anh trong hoàn cảnh anh không muốn biết cha anh biết mình có người yêu là cô gái người bản xứ da trắng tóc vàng.
Nam không muốn viết về đề tài chủng tộc và những xung đột văn hóa vì anh cho rằng chỉ cần nửa trang giấy với vài ẩn dụ cũng như vài nét đặc thù văn hóa là có thể dễ dàng viết thành một truyện như vậy. Anh bế tắc đề tài và sau phải xoay về quá khứ với cuộc đời của người cha mà có lần anh nghe kể lại rằng ông là người sống sót trong thảm nạn ở Mỹ Lai nhờ nằm dưới thân hình của vợ ông che chở. Ông cũng là một sĩ quan của quân đội miền Nam và đã bị ba năm tù cải tạo sau vượt biển đến Úc định cư.
Ông thực tình không muốn con mình theo nghề viết văn và đôi khi đọc những truyện ngắn của Nam về thuyền nhân mặc dù đươc bạn bè và những người chung quanh khen tặng nhưng ông vẫn phê bình là chưa phải là truyện hay bởi vì vẫn chưa lột tả được sự thật.
Cha của Nam là một người bố nghiêm khắc có lần đã đánh đòn Nam khiến anh bỏ nhà đến sống với người bạn gái nghiện hút. Mẹ Nam thương con lén chu cấp cho con, cha Nam biết được giận dữ cãi lẩy và hai người ly thân. Mẹ Nam khuyên con trở về nhà và cha của Nam cũng chấp nhận và hứa rằng không bao giờ nhắc đến chuyện đã qua nữa. Vì thế tình cha con đã có nhiều rạn nứt.
Khi thăm con ở Iowa, hai cha con nói chuyện suốt đêm và với những thu lượm ấy Nam hoàn tất truyện ngắn mà anh rất cần thiết ngay sau khi người cha đi ngủ. Anh hoàn thành truyện ngắn khi trời gần sáng và ngủ thiềp đi. Sáng dậy Nam không thấy người cha và bản thảo truyện ngắn vừa viết xong cũng biến mất. Anh đi kiếm và khi gặp người cha thì ông đã mang bản thảo truyện ngắn ấy vào thùng đốt lửa để sưởi của một ông già homeless. Nam qúa tức giận vì người cha đã phá hủy một truyện ngắn cực kỳ quan trọng như vậy. Anh đã nói với cha rằng ước gì ông đừng đến thăm và ông không phải là cha của anh
Sự thâm trầm trong cách diễn tả đã phác họa được chân dung người cha, đã trải qua những giây phút sống sót khi nằm dưới sự che chở của thân thể người vợ dưới làn đạn bắn như mưa và cũng đã qua trại tù Cộng sản, đã qua những ngày vượt biên sóng gió nên ông muốn cuộc đời còn lại phải có ý nghĩa và thực hiện được những việc đáng kể để không uổng phí những kinh nghiệm đắt giá của cuộc sống. Vì thế ông nghiêm khắc với con và bắt Nam vào khuôn khổ để hoàn thành những ý nguyện của ông. Nhưng Nam lại ở một thế hệ khác, có môi trường sống khác mà tự do cá nhân được tôn trọng. Thành ra giữa cha và con có sự xung đột, mà chính là sự xung đột của hai nền văn hóa, hai đời sống khác nhau. Sự phá hủy bản thảo của người cha có biểu tượng gì trong dụng tâm của Nam Lê? Có phải là một hành động đốt bỏ đi một quá khứ? Hay là để khởi đầu cho một hứa hẹn đúng nghĩa về sau? Dù sao, đó cũng là một bất ngờ cho độc giả. Có rất nhiều lời khen tặng từ các nhà văn, phê bình gia có tăm tiếng như giáo sư Marilynne Robinson của đại học Iowa, hay nhà văn đoạt giải Pulitzer năm 2008 Junot Diaz. Hầu như họ đều có cùng một cảm nghĩ là sự trưởng thành lão luyện đầy tính sáng tạo một cách không ngờ từ một tác phẩm đầu tay của một cây bút trẻ. Nét đặc sắc dám đi trên một con đường chưa ai đi qua và dám trực diện với những vấn đề mà ngay cả những nhà văn có nhiều kinh nghiệm cũng e dè né tránh. Chọn lựa những không gian thời gian khác, khai triển từ những nền văn hóa khác nhau để có những nhân vật đặc thù như những phác họa chân dung con người tùy theo cách nhìn cũng như vị trí, chỗ đứng quan sát.
***
Chân dung của những nhà văn gốc Việt viết bằng Anh hoặc Pháp ngữ có nhiều điều tương tự với nhau. Phần đông xuất thân từ những lớp dạy viết văn ở đại học hoặc có trình độ chuyên nghiệp về kiến thức lẫn chuyên môn. Kiên Nguyễn là nha sĩ; Lan Cao, Aimee Phan, Nguyễn Minh Bích là giáo sư đại học; Nam Le, Monique Trương là luật sư; Andrew X. Pham, Pham Xuân Quang là kỹ sư; Andrew Lam, Nguyễn Quí Đức là xướng ngôn viên. Ở thế hệ 1,5 hay 2, họ tuy có những suy nghĩ độc lập nhưng vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Việt nam. Từ lối sống và suy nghĩ, họ như người đi song song giữa hai nền văn hóa. Tuy nói rằng hai vai họ không bị nặng mang bởi quá khứ của thời thế chiến tranh nhưng trong tác phẩm vẫn thấp thoáng dấu vết của cuộc chiến. Họ không mang nhiều tính hoài niệm như thế hệ thứ nhất nhưng trong văn chương họ cũng muốn làm nổi bật sắc thái của những người tạo dựng tương lai của mình ở xứ sở định cư bằng nghị lực….[NMT]
No comments:
Post a Comment