Joseph S.
Nye, Jr.
Bài dịch của Nguyễn
Ngọc Khánh
Thứ
hai, ngày 13 tháng tám năm 2012
Bài
viết của ông Joseph S. Nye, Jr. Ông là cha đẻ của lý thuyết “Quyền lực mềm”,
cũng là một cựu trợ lý bộ trưởng quốc phòng, là một giáo sư tại Đại học Harvard
và là tác giả của cuốn Tương lai của Quyền lực(The Future of Power).
ASPEN – Những cuộc thăm dò ý kiến quần chúng ở Hoa Kỳ cho thấy một cuộc bỏ phiếu bầu chọn tổng thống cân tài cân sức vào tháng Mười Một này. Trong khi Tổng thống Barack Obama nhận được nhiều lá phiếu hơn ứng cử viên thách đấu của đảng Cộng hòa, Mitt Romney,
trên phương diện mà đang có lợi cho Romney như chính sách đối ngoại, tăng
trưởng kinh tế trì trệ và tỷ lệ thất nghiệp cao - những vấn đề nổi cộm hơn hẳn
trong các cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ. Và, ngay cả về vấn đề chính sách đối ngoại,
những người chỉ trích ông Obama phàn nàn rằng ông đã thất bại trong việc triển
khai các sáng kiến chuyển đổi mà ông đã hứa hẹn cách đây bốn năm. Họ đã chính xác hay chưa?
Obama đã lên nắm quyền vào thời điểm khi mà cả nền kinh tế của
Hoa Kỳ và thế giới đang ở bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất
kể từ cuộc Đại Suy Thoái. Thực vậy, một số cố vấn kinh tế của Obama đã khuyên
ông ta rằng trừ phi những bước đi khẩn cấp được thực thi để kích thích nền kinh
tế, đã có một trong ba khả năng nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ lâm vào một cuộc suy
thoái toàn diện.
Như vậy, mặc dù Obama cũng kế thừa hai cuộc chiến đang diễn ra,
các mối đe dọa phổ biến vũ khí hạt nhân từ Ba Tư lẫn Bắc Triều Tiên, và vấn đề
tiếp diễn của chủ nghĩa khủng bố Al Qaeda, ông ta đã dành những tháng đầu tiên
trên cương vị tổng thống để giải quyết vấn để về các cuộc khủng hoảng kinh tế
trong và ngoài nước. Những nỗ lực của ông ta dù không phải là một thành công
trọn vẹn, song ông ta đã xoay sở để ngăn ngừa những hậu quả tồi tệ nhất.
Tài hùng biện của Obama trong suốt chiến dịch tranh cử năm 2008
và những tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của ông ấy vừa gây được cảm
hứng trong phong cách lại mang tính chuyển đổi dựa trên những điều khách quan.
Năm đầu tiên khởi sự trên cương vị tổng thống của ông ấy đã làm một loạt các
bài diễn văn, một bài ở Prague, trong đó ông đã thiết lập được mục đích của một
thế giới phi hạt nhân; một bài phát biểu tại Cairo hứa hẹn về một hướng tiếp
cận mới tới thế giới Hồi giáo; và bài diễn văn đoạt giải Nobel hòa bình, mà nó
đã hứa hẹn “uốn nắn lịch sử về hướng công lý”.
Một phần là, loạt bài phát biểu này mang tính chiến thuật. Obama
đã cần phải đáp ứng lời hứa của mình để thiết lập một hướng đi mới về vấn đề
chính sách đối ngoại trong khi đồng thời tìm cách xoay xở để sắp xếp lại các
vấn đề mà bị bỏ lại cho ông bởi cựu tổng thống George W. Bush, bất kỳ vấn đề
nào trong số này, nếu bị bỏ đi, vẫn có thể gây ra một cuộc khủng hoảng cho
nhiệm kỳ tổng thống của ông. Tuy nhiên, không có lý do nào để tin rằng Obama đã
không trung thành với mục tiêu của mình. Thế giới quan của ông đã được định
hình bởi thực tế rằng ông ấy đã trải qua một phần tuổi trẻ của mình ở Nam Dương
và có một người cha gốc châu Phi.
Trong những ngôn từ của một cuốn sách thuộc Viện Brookings gần
đầy, Obama đã có một “tầm nhìn của một nhà hoạt động xã hội về vai trò của ông
trong lịch sử,"với ý định" tái cách tân hình ảnh của Hoa Kỳ ở nước
ngoài, đặc biệt là trong thế giới Hồi giáo; kết thúc tình trạng bị hút vào của
quốc gia mình trong hai cuộc chiến; dang rộng cánh tay hữu nghị với Ba Tư; tái
thiết lập quan hệ bang giao với nước Nga như là một bước tiến tiến tới việc
giải trừ vũ khí hạt nhân trên thế giới; phát triển sự hợp tác đáng kể với Trung
Hoa về cả hai vấn đề trong khu vực lẫn trên toàn cầu, và lập lại hòa bình ở
Trung Đông.” Song ghi nhận về những thành tựu về các vấn đề này mà ông đạt được
đã bị hòa lẫn vào nhau.
Sự ghi nhận vẫn tiếp tục như sau “Hoàn cảnh thoạt trông như là
nan giải ấy đã biến ông ta từ một người muốn trở thành kiến trúc sư của một
trật tự toàn cầu mới thành một nhà lãnh đạo chỉ tập trung nhiều hơn nữa vào
việc sửa chữa những mối quan hệ bang giao với và đối phó lại với các cuộc khủng
hoảng - đáng chú ý nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu”. Và trong khi ông
ta đã loại bỏ Osama bin Laden và làm suy yếu Al Qaeda, một số các chính sách
chống khủng bố đã chấm dứt sức lôi cuốn của mình ở những nơi như Trung Đông và
Hồi Quốc(Pakistan).
Mặt bi quan ở nhiệm kỳ đầu của ông Obama là kết
quả của những sự kiện nan giải, một số là sản phẩm của sự ngây thơ lúc đầu,
chẳng hạn như các cách tiếp cận ban đầu với Israel, Trung Hoa, và Afghanistan.
Tuy nhiên, Obama đã nhanh chóng gượng dậy từ những sai lầm bằng một cách thiết
thực. Như một trong số những người ủng hộ ông ta đã diễn tả, ông ta là một “nhà
duy tâm thực dụng”.
Theo nghĩa này, mặc dù Obama đã không đi ngược lại những lời nói
mang tính hùng biện về các mục đích mang tính chuyển đổi liên quan đến các vấn
đề như sự biến đổi khí hậu hoặc vũ khí hạt nhân, trên thực tế chủ nghĩa thực dụng
của ông gợi nhớ đến nhiều nhà lãnh đạo tiền nhiệm đã được tăng thêm nhiệm kỳ
tổng thống nữa như Dwight Eisenhower, George HW Bush. Mặc dù Obama thiếu kinh
nghiệm, mà nó liên quan đến những vấn đề quốc tế, ông ta đã cho thấy một kỹ
năng tương tự trong việc đối phó với một tập hợp phức tạp các thách thức trong
vấn đề chính sách đối ngoại. Điều này đã được minh chứng bởi các cuộc hẹn của
ông ta với các cố vấn dày dạn kinh nghiệm, sự quản lý cẩn thận các vấn đề, và
trên tất cả là, tài trí ứng biến sắc sảo.
Điều này không phải là để nói rằng Obama đã không có những kết
quả mang tính chuyển đổi. Ông ta đã thay đổi quá trình của một chính sách không
được lòng dân ở Ba Tư và Afghanistan; đi theo chiến lược chống lại tình trạng
nổi loạn dựa trên việc sử dụng ít tốn kém hơn về khả năng quân sự và không gian
mạng; tăng cường quyền lực mềm của Hoa Kỳ ở nhiều nơi trên thế giới; và bắt đầu
dịch chuyển trọng tâm mang tính chiến lược của Hoa Kỳ đến châu Á, khu vực đang
phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế toàn cầu.
Về sự lưu tâm đến Ba Tư, Obama đã phải vật lộn nhằm triển khai
thực hiện các biện pháp trừng phạt được Liên Hiệp Quốc thông qua và tránh khỏi
một cuộc chiến tranh còn trong trứng nước. Và, trong khi các cuộc cách mạng Mùa
xuân Ả Rập đã giới thiệu ông với một bất ngờ không mong muốn, sau một hồi do dự
ông đã quyết định ủng hộ những gì mà ông coi là lịch sử.
Trong một cuốn sách mới, cuốn “Đối mặt và Che đậy”, David Sanger
mô tả những gì mà ông gọi là "Học thuyết Obama" (mặc dù ông ấy chê
trách ngài tổng thống trong việc không thông tin một cách rõ ràng hơn): dấu ấn
quân sự nhẹ nhàng hơn, kết hợp với việc sẵn sàng sử dụng vũ lực một cách đơn
phương khi mà các quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ bị liên lụy trực tiếp; việc
nương tựa vào các liên minh nhằm đối phó với các vấn đề toàn cầu mà không trực
tiếp đe dọa đến an ninh của Hoa Kỳ; và "việc tái cân bằng từ sự sa lầy tại
Trung Đông để di chuyển đến lục địa của sự hứa hẹn vĩ đại nhất trong tương lai
- Châu Á."
Sự tương phản giữa việc hạ sát Bin Laden và can thiệp vào nội bộ
Libya minh họa cho Học thuyết Obama. Trong trường hợp trước đó, Obama đã đích
thân điều khiển (chỉ đạo) việc sử dụng đơn phương lực lượng quân sự, tham gia
vào một cuộc đột kích bất ngờ trên lãnh thổ Hồi Quốc. Còn về trường hợp Libya,
nơi mà những lợi ích của quốc gia không còn rõ ràng, ông ta đã chờ đợi cho đến
khi Liên đoàn Ả Rập và Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết mà đã quy định tính
hợp pháp cần thiết để đảm bảo sự thể hiện quyền lực mềm đúng đắn, và sau đó
chia sẻ quyền lãnh đạo của sự vận hành quyền lực cứng với các quốc gia đồng
minh NATO.
Tác động lâu dài của Học thuyết Obama sẽ cần thêm thời gian để
thẩm định, song, khi mà ông ta đến gần cuộc bầu cử vào tháng Mười Một, Obama
hiện diện với một chút lợi thế hơn trước các đối thủ của mình về vấn đề chính
sách đối ngoại. Obama đã không uốn nắn cánh cung lịch sử theo cái cách chuyển
đổi mà ông ta đã khao khát trong chiến dịch của mình cách đây bốn năm, tuy
nhiên sự dịch chuyển của ông theo một phương pháp tiếp cận thực dụng hóa ra có
lẽ lại là một điều tốt, đặc biệt là khi các cử tri vẫn tiếp tục có những nghi
ngờ về nền kinh tế.
@Project Syndicate 2012
Bài viết cùng tác
giả:
No comments:
Post a Comment