Dương Kế Thằng
Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Ngày 23 tháng 8 năm 2012
Sau khi giành được chính quyền, Đảng
Cộng sản Trung Quốc bưng bít hết mọi nguồn thông tin từ nước ngoài, đồng thời
phủ nhận toàn bộ những chuẩn mực đạo đức truyền thống của Trung Quốc. Chính phủ
nắm độc quyền thông tin nên cũng nắm độc quyền về chân lí. Là trung tâm quyền
lực, Trung ương Đảng cũng là trung tâm chân lí và thông tin. Tất cả các cơ quan
nghiên cứu khoa học xã hội cúc cung tận tụy xác nhận tính chính đáng của chế độ
cộng sản; mọi đoàn văn công nỗ lực hết mình ca tụng Đảng Cộng sản Trung Quốc;
tất cả các cơ quan truyền thông đưa tin đăng bài chứng minh sự sáng suốt và sức
mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Từ nhà trẻ đến đại học, sứ mệnh chính là cấy
thế giới quan cộng sản vào tâm trí của học sinh, sinh viên các cấp. Các viện
nghiên cứu khoa học xã hội, đoàn văn công, cơ quan truyền thông và trường học
tất thảy đều trở thành công cụ cho sự độc quyền của Đảng về tư tưởng, tinh thần
và quan điểm, và tất cả các cơ quan này liên tục tham gia nhào nặn tâm hồn của
thế hệ trẻ Trung Quốc. Những người làm công việc này hãnh diện được gọi là ‘kĩ
sư tâm hồn’.
Trong hoàn cảnh suy nghĩ và thông tin
bị bưng bít như vậy, chính quyền trung ương dùng bộ máy độc quyền của mình cho
công tác lâu dài là làm cho mọi người thấm nhuần các giá trị cộng sản đồng thời
phê phán và bài trừ bất cứ giá trị nào khác. Bằng cách này, tâm trí của giới
trẻ hình thành những cảm xúc rõ rệt và sâu sắc về đúng/sai và yêu/ghét, và
những cảm xúc đó hóa thành niềm khao khát mãnh liệt muốn biến các lí tưởng cộng
sản thành hiện thực. Lúc đó, bất cứ lời nói hay hành động nào phản đối hay đi
chệch khỏi những lí tưởng này sẽ bị toàn thể mọi người nhất loạt đả kích.
Trong công tác tuyên truyền cho thấm
nhuần các giá trị [cộng sản], cơ cấu tổ chức của Đảng thậm chí còn hữu hiệu hơn
cả các viện nghiên cứu khoa học xã hội, cơ quan truyền thông, đoàn văn công và
trường học. Mỗi cấp ủy Đảng có một bộ phận nòng cốt được hậu thuẫn của những
đảng viên tích cực, cấp trên quản lí cấp dưới, cấp dưới trung thành với cấp
trên. Những phong trào chính trị liên tiếp, hàng trăm hàng ngàn cuộc họp lớn
nhỏ, những buổi lễ tuyên dương và các buổi đấu tố, các phần thưởng và hình
phạt, tất thảy đều dùng để lôi kéo giới trẻ vào một quỹ đạo duy nhất. Tất cả
những quan điểm khác với các quan điểm của Đảng đều bị tiêu diệt từ trong trứng
nước.
Lúc đó tôi thật lòng tin rằng một
nước Trung Quốc yếu kém và nghèo đói, từng bị bọn đế quốc áp bức trong gần 100
năm, có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường “Ba ngọn cờ hồng” và tiếp
tục thực hiện lí tưởng cao nhất của nhân loại – đó là chủ nghĩa cộng sản. So
với lí tưởng cao cả này, những khó khăn cỏn con tôi gặp phải thì nghĩa lí gì?
Tôi tin tưởng chủ trương “Ba ngọn cờ
hồng” không chỉ vì u mê ngu dốt, mà còn vì áp lực chính trị kinh khủng đè nặng
lên toàn xã hội, cái kiểu áp lực không cho ai nghi ngờ. Bản thân tôi chứng kiến
nhiều biến cố đau lòng. Vạn Thượng Quân (萬尚君), học cùng trường nhưng trên tôi một lớp, mất cơ hội thi
đại học vì anh ấy ca ngợi một bài diễn văn của Tito phê phán ‘phe xã hội chủ
nghĩa’. Anh ấy từng đỗ đầu trong kì thi vào trường cấp hai của huyện trước tôi
một năm, nên tôi biết rõ về anh. Anh là học sinh xuất sắc và chín chắn nhưng
lại mất hết triển vọng cho tương lai ở tuổi mười bảy vì anh suy nghĩ quá độc
lập. Trong một vụ khác xảy ra vào mùa Xuân năm 1959, có người phát hiện dòng
chữ ‘Đả đảo Mao’ viết nguệch ngoạc trên vách ngăn cầu tiêu, và hoảng hốt đi báo
lãnh đạo nhà trường. Trường vội vã báo lên Sở Công an, và Sở nhanh chóng phá
án. Hóa ra một anh học trên tôi một lớp, đói quá hóa rồ, trong cơn tức giận đã
viết dòng chữ đó. Tôi tận mắt thấy anh bị cùm tay và tống vào tù.
Những đợt phê bình không ngừng nghỉ
của quần chúng cách mạng và những hình phạt khắc nghiệt mà ta chứng kiến dần
dần tiêm vào ta cảm giác kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng đó không phải là cảm giác
khiếp sợ chợt đến khi ta thấy rắn độc hay thú dữ, mà là nỗi ghê sợ ăn dần thấm
dà vào thần kinh ta, vào máu ta, để rồi trở thành một phần trong bản năng sinh
tồn của một con người. Người dân biết cách tránh hiểm họa chính trị như thể
thấy cháy nhà thì ráng chạy thoát thân.
Ở một đất nước vốn từ xa xưa đã có
tâm lí tôn vua kính chúa, ngay từ đầu người dân đã xem chính quyền trung ương
là tiếng nói quyền uy, và Đảng dùng ‘sức mạnh diệu kỳ’ của chính quyền trung
ương để khiến toàn dân thấm nhuần các giá trị thống nhất. Giới trẻ ít kinh
nghiệm thật lòng tin tưởng những giáo điều này, còn cha mẹ của chúng tuy có
nhiều kinh nghiệm hơn chút ít nhưng vì lòng tin mù quáng vào ‘sức mạnh diệu kỳ’
hoặc vì sợ chế độ nên cố gắng hết sức để ngăn không cho con cái bộc lộ bất cứ
luồng tư tưởng nào khác với tư tưởng của chính quyền, buộc con cái phải phục
tùng và vâng lời.
Năm 1960 tôi thi đỗ vào Viện Đại học
Thanh Hoa. Ngay sau khi nhập học, tôi tham quan triển lãm “chống hữu phái” của
trường và bắt đầu dấn thân vào con đường giáo dục lòng trung thành của tôi.
Tiếp đến là hơn năm mươi ngày làm việc cực nhọc ở nông thôn để được giáo dục
qua lao động và tập tranh luận biện hộ cho “Ba ngọn cờ hồng”. Dù bụng đói sôi
sùng sục, chúng tôi cũng chưa bao giờ hoài nghi về “Ba ngọn cờ hồng”.
Trường đại học này từng nổi tiếng về
tính cởi mở của giới trí thức, nhưng hóa ra lại hết sức hẹp hòi. Viện đại học
Thanh Hoa từng có nhiều giáo sư lừng danh, nhưng tôi chỉ biết đến Văn Nhất Đa (聞一多) và Chu Tự Thanh (朱自清) từ những trước tác của Mao Trạch Đông, và chưa hề nghe
đến Trần Dần Khác (陳寅恪) hay Ngô Mật (吳宓)[i].
Thư viện của trường có sách nhiều đáng nể, nhưng những cuốn duy nhất tôi có thể
mượn được, ngoài những cuốn về khoa học kĩ thuật, đều liên quan đến chủ nghĩa
cộng sản. Hai cựu sinh viên của trường, Dương Chấn Ninh (楊振宁) và Lý Chính Đạo (李政道), đã giành giải Nobel vật lí năm 1957,[ii]
nhưng trường lại giữ kín chuyện này. Trong những buổi họp cán bộ Đoàn Thanh
niên, trường thậm chí còn cảnh báo rằng hai người này là phần tử trí thức phản
động, và chúng tôi không nên đi theo con đường ‘tinh hoa chủ nghĩa’ của họ.
Thời đại học, tôi vẫn rất ngoan ngoãn
phục tùng, suốt thời gian đó tôi làm bí thư chi đoàn, rồi vào Đảng Cộng sản
tháng 5 năm 1964. Thời đó, những thanh niên như tôi được xem là rất ngây thơ và
chân chất, và quả đúng như vậy; đầu óc chúng tôi chỉ toàn những niềm tin do bộ
máy tuyên truyền tiêm vào, ngoài ra chẳng có gì cả. Bằng cách này Đảng uốn nắn
thế hệ đang lớn lên dưới chế độ mới thành những tông đồ trung thành. Nếu không
có những sự kiện lớn xảy ra trong những thập niên đó, và nếu chế độ đó vẫn vững
vàng tại vị, thế hệ chúng tôi có lẽ vẫn giữ những niềm tin đó trong suốt cuộc
đời mình.
Điều dẫn đến thay đổi đầu tiên trong
suy nghĩ của tôi là Cách mạng Văn hóa. Lúc khởi đầu Cách mạng Văn hóa, tôi rất
ngạc nhiên khi thấy ở Viện Đại học Thanh Hoa xuất hiện hàng ngàn “Đại tự báo”
tố cáo cuộc sống hủ bại và tinh thần đê hèn của những nhà cách mạng lão thành
mà tôi kính nể từ lâu. Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1966, tôi và nhiều bạn cùng
lớp đi đến hơn 20 thành phố để ‘thiết lập quan hệ’, và ở những nơi đó chúng tôi
cũng thấy nhiều “Đại tự báo” tiết lộ sự tham nhũng và đặc quyền của những cán bộ
cấp cao. Tôi bắt đầu mất niềm tin vào hệ thống công quyền, và tôi chẳng còn tin
những gì mình đọc trên báo. Tôi bắt đầu nghi ngờ những huyền thoại mà Đảng đã
khắc ghi trong tâm trí tôi suốt những năm qua. Giống như hầu hết những người
dân thường, tôi tham gia vào Cách mạng Văn hóa chỉ vì phản đối đặc quyền của
các quan chức. Và chính trong thời kì Cách mạng Văn hóa, Trương Thể Học (張體學), Chủ tịch tỉnh Hồ Bắc, đã nói một điều làm tôi sửng sốt:
trong ba năm khốn khó ở tỉnh Hồ Bắc, khoảng 300.000 người đã chết đói! Chỉ khi
ấy tôi mới nhận ra rằng bi kịch của gia đình tôi không phải là đơn nhất.
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được
phân công làm việc tại Tân Hoa Xã. Các phóng viên Tân Hoa được gặp gỡ mọi tầng
lớp xã hội mà những người khác chẳng bao giờ có thể tiếp xúc. Tôi không chỉ
biết nhiều sự thật mâu thuẫn với những điều đã viết trong sách sử của Đảng, mà
còn quan sát cuộc sống vất vả của giới công nhân thành thị. Là phóng viên Tân
Hoa, tôi biết ‘tin tức’ đăng trên báo chí đã được chế tác ra sao, và tôi cũng
biết các cơ quan truyền thông đã thành cái loa của nhà cầm quyền như thế nào.
Chủ trương cải cách và mở cửa đã nới
lỏng đáng kể những ràng buộc trước đây bóp nghẹt giới trí thức của Trung Quốc,
và một số sự thật lịch sử bắt đầu hé lộ. Trong quá khứ, Đảng đã dạy chúng tôi
rằng trong cuộc kháng chiến chống Nhật, chỉ có người cộng sản đánh Nhật, còn
Quốc dân Đảng hoàn toàn đầu hàng và cộng tác với địch. Giờ đây chúng tôi biết
rằng khoảng hai trăm tướng lĩnh Quốc dân Đảng đã hi sinh tính mạng để duy trì công
cuộc kháng chiến. Trước kia, Đảng đã dạy chúng tôi rằng thiên tai đã gây ra nạn
đói ở một số ít vùng trên toàn quốc. Giờ đây chúng tôi biết rằng đó hoàn toàn
là nhân họa khiến hàng chục triệu người đói đến chết. Tôi bắt đầu hiểu rằng
lịch sử Đảng, và lịch sử một trăm năm gần đây của Trung Quốc, đã bị xuyên tạc
và biên tập cho phù hợp với nhu cầu của Đảng.
Nhờ nhận ra mình đã bị lừa dối trong
suốt thời gian dài như vậy, tôi bỗng có sức mạnh ghê gớm để rũ bỏ sự dối trá
này. Chính quyền càng che giấu sự thật, tôi càng quyết tâm theo đuổi sự thật.
Tôi bắt đầu đọc hàng tập tư liệu mới xuất bản, và trong công việc tường thuật
tin tức tôi cố gắng tìm hiểu sự thật của quá khứ. Kinh nghiệm cá nhân của tôi
về cuộc biến động ở Bắc Kinh năm 1989 (sự kiện Thiên An Môn – 天安門事件) đã thức tỉnh tôi đáng kể: máu của những sinh viên trẻ
tuổi đó đã rửa sạch đầu óc của tôi, gột sạch tất cả những điều dối trá mà đầu
óc tôi đã chấp nhận trong mấy chục năm trước. Trong vai trò nhà báo, tôi phấn
đấu tường thuật và bàn luận đúng sự thật. Trong vai trò học giả, tôi cảm thấy
có trách nhiệm phục hồi lịch sử trở lại với đúng bản chất của nó, và kể sự thật
lịch sử cho những người đã từng bị lừa dối nghe.
Trong nỗ lực phá bỏ sự lừa dối và
theo đuổi sự thật, tôi dần dần hiểu được bối cảnh xã hội lúc cha tôi mất. Dù
mấy chục năm đã trôi qua, những hồi tưởng của tôi về nguyên nhân khiến cha tôi
chết và những điều tôi suy nghĩ về ông ngày càng thấm thía. Đến thập niên 1980,
dân làng ở quê tôi bắt đầu có xu hướng dựng bia mộ cho những người đã khuất.
Những người làm cán bộ cao cấp ở nơi khác dựng bia mộ rất hoành tráng. Bạn bè
và bà con họ hàng động viên tôi dựng bia mộ cho cha tôi. Tôi nghĩ dù mình chẳng
phải là cán bộ cao cấp gì cho cam, tôi cũng sẽ dựng bia mộ cho cha còn hoành
tráng hơn bất cứ bia mộ nào khác. Nhưng tôi nhớ đến số phận những bia mộ ở làng
tôi vào năm 1958. Có bia mộ đã bị phá dỡ để dùng trong các công trình thủy lợi
lớn, hoặc dùng làm nền cho các lò luyện kim trong chiến dịch sản xuất thép thời
kì Đại Nhảy vọt; có bia mộ bị dùng để lót đường cho hàng ngàn người đi qua. Bia
mộ càng uy nghi thì càng có khả năng bị phá bỏ. Bia mộ của cha tôi phải được
dựng, nhưng không phải trên đất, mà là dựng trong tim. Bia mộ trong tim chẳng
bao giờ bị phá dỡ hay bị thiên hạ giày xéo lên.
Tôi quả thực đã dựng bia mộ cho cha
trong tim tôi. Cuốn sách này viết nên từ những chữ tôi khắc lên bia mộ đó. Ngay
cả sau khi tôi nhắm mắt xuôi tay, cảm xúc chân thành được thể hiện bằng những
từ ngữ này sẽ vẫn lưu lại trong các thư viện trên khắp thế giới.
II.
Tấn bi kịch xảy ra trong gia đình tôi
cũng đồng thời ập xuống hơn mười triệu gia đình trên khắp đất nước Trung Quốc.
Trong những chương nói về tổn thất
dân số, người đọc sẽ thấy tôi tham khảo nhiều loại tài liệu từ Trung Quốc và từ
nước ngoài để khẳng định rằng khoảng 36 triệu người đã chết vì đói ở Trung Quốc
từ năm 1958 đến năm 1962. Vì nạn đói cũng làm giảm tỉ lệ sinh, trong những năm
đó số trẻ ra đời ước tính thấp hơn 40 triệu so với con số lẽ ra đã có trong
hoàn cảnh bình thường. Tính chung có tổng cộng 76 triệu mạng sống bị mất đi do
nạn đói trong bốn năm đó.
Ở các vùng Tín Dương (信陽, tỉnh Hà Nam), Thông Vị (通渭, tỉnh Cam Túc), Phụng Dương (鳳陽, tỉnh An Huy), Hào Châu (亳州, tỉnh An Huy), La Định (羅定, tỉnh Quảng Đông), Vô Vi (無為, tỉnh An Huy), Quán Đào (館陶, tỉnh Hà Bắc), Tế Ninh (濟宁, tỉnh Sơn Đông) và nhiều vùng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, gần
như gia đình nào cũng có ít nhất một người chết vì đói, và không ít gia đình bị
xóa sổ hoàn toàn. Trong một số trường hợp, cả làng không còn một người nào.
Cảnh tượng này giống như Mao Trạch Đông tả trong một bài thơ của ông: ‘Ngàn
làng mạc mênh mông cỏ dại, người muôn người chết dần chết dà; Vạn ngôi nhà chỉ
còn bóng ma lởn vởn hát ca’.[iii]
Hãy khoan nói đến 40 triệu người chưa
bao giờ ra đời, làm sao ta có thể hình dung nổi 36 triệu người đang sống lại bị
bỏ đói đến chết? Con số này tương đương 450 lần số người chết vì bom nguyên tử
thả xuống Nagasaki vào ngày 9 tháng 8 năm 1945.[iv]
Như thể có kẻ cho thả 450 quả bom nguyên tử xuống các làng mạc Trung Quốc. Con
số này gấp 150 lần số người chết trong trận động đất Đường Sơn (唐山, tỉnh Hà Bắc) vào ngày 28 tháng 7 năm 1976.[v] Con
số này lớn hơn số người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Khoảng 10
triệu người chết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hay trung bình hai triệu
người mỗi năm từ năm 1914 đến 1918. Chỉ trong năm 1960, 15 triệu người chết đói
ở Trung Quốc. Mức độ tàn khốc của nạn đói này ở Trung Quốc thậm chí vượt xa
cảnh khốc liệt của Chiến tranh Thế giới thứ hai với 40-50 triệu người thiệt
mạng.[vi]
Những ca tử vong trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trải ra trên khắp Châu Âu,
Châu Á và Châu Phi trong thời gian bảy hay tám năm; còn 36 triệu nạn nhân của
nạn đói ở Trung Quốc chết trong thời gian chỉ ba hay bốn năm, và ở đa số vùng,
số tử vong tập trung chỉ trong vòng sáu tháng.
Nạn đói thời kì 1958-1961 khiến tất
cả những nạn đói khác trong lịch sử Trung Quốc trở nên mờ nhạt. Nạn đói trầm
trọng nhất trước kia được ghi lại trong sử Trung Quốc diễn ra trong những năm
1928–1930, trong thời gian đó một thiên tai đã ảnh hưởng đến 22 tỉnh. Nạn đói
đó phá vỡ mọi kỉ lục có trước, nhưng tổng cộng chỉ có 10 triệu người chết.
Trong 17 năm từ 1920 đến 1936, nạn đói do mất mùa cướp đi sinh mạng của 18,36
triệu người.[vii]
Lý Văn Hải (李文海) và những đồng tác giả khác, trong
các cuốn Những nạn đói gần đây ở Trung Quốc và 10 nạn đói lớn nhất
gần đây của Trung Quốc,[viii]
thực sự tin rằng con số đó bị phóng đại, và số người chết trong nạn đói trầm
trọng nhất thời kì 1928–1930 không vượt quá 6 triệu, trong khi 140.000 người
chết do những trận lụt sông Dương Tử năm 1931. Số người chết đói từ năm 1958
đến 1962 gấp nhiều lần so với số người chết trong bất kì thảm họa nào trước kia
ở Trung Quốc.
Không một tiếng kêu khóc thống thiết
khẩn cầu trời đất, không còn đám tang tẩm liệm đàng hoàng, không có tiếng pháo
đì đùng và tiền âm phủ để tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng, không
còn ai để thương cảm và đau buồn, không một giọt nước mắt, cũng chẳng còn sửng
sốt hay hoảng loạn. Hàng chục triệu người rời bỏ trần gian trong một không khí
hờ hững câm lặng.
Một số làng dùng xe tải chở xác đi
chôn trong những nấm mồ tập thể ở ngoại vi. Ở những làng mà người sống không đủ
sức mai táng người chết cho đàng hoàng, chân tay của người chết trồi lên mặt
đất. Ở một số nơi, người chết nằm ven đường khi họ gục xuống trong lúc đang vô
vọng đi tìm thức ăn. Không ít người bị bỏ lại tại nhà, để rồi lũ chuột gặm nhấm
mũi và tai họ.
Mùa Thu năm 1999, tôi đến Cao Du
phường (高油坊) ở làng Phòng Hồ (防胡鄉) thuộc huyện Hoài Tân, thành phố Tín Dương, để tìm hiểu
thêm về tình hình ở đây. Một ông lão trong làng, Dư Văn Hải (餘文海), tuổi trạc thất tuần, dẫn tôi ra một đồng lúa ở rìa
làng. Cụ vừa chỉ đám cây mọc trên đồng vừa nói, ‘Chỗ mấy cái cây kia từng là hố
chôn ít nhất 100 xác người’. Nếu cụ Dư với tư cách là nhân chứng của những sự
kiện đó không nhắc chuyện này, có lẽ đã chẳng ai biết đến bi kịch kinh khủng
chôn vùi dưới đám mạ xanh mơn mởn và những cái cây dáng vẻ oai nghiêm kia.
Cơn đói dằn vặt con người trước khi
chết còn tàn khốc hơn chính cái chết. Lúa gạo ngũ cốc không còn một hạt, cỏ cây
dại đã ăn sạch, thậm chí vỏ cây cũng tước ra ăn, rồi chuột, phân chim, và cả
bông nhồi trong chăn, tất thảy đều cho vào mồm hòng nhét đầy bao tử. Trên những
đồng đất sét cao lĩnh,[ix]
những người đói quay quắt vừa đào đất sét vừa nhai trệu trạo. Xác của những
người chết, của những nạn nhân từ các làng khác đến lánh nạn đói, và thậm chí
của chính người thân trong gia đình, trở thành thức ăn cho những kẻ đang tuyệt
vọng.
Chuyện ăn thịt người không còn là cá
biệt. Sách sử xưa thuật lại nhiều trường hợp các gia đình đổi con cho nhau để
ăn trong những nạn đói trầm trọng, còn trong thời kì Nạn đói 1958-1961 này, một
số gia đình chỉ còn biết ăn con của chính mình. Ở một số huyện ở Tín Dương, ở
Thông Vị, tỉnh Cam Túc, và ở tỉnh Tứ Xuyên, người sống sót kể lại nhiều chuyện
ăn thịt người kinh hoàng. Tôi đích thân gặp nhiều người từng ăn thịt người và
nghe họ mô tả mùi vị của nó.
Qua phân tích những bằng chứng đáng
tin cậy mà tôi thu thập được, có thể thấy có hàng ngàn vụ ăn thịt người trên
khắp Trung Quốc trong thời gian đó.[x] Tôi
đã nêu chi tiết những trường hợp bi thảm này trong các chương liên quan đến
từng tỉnh cụ thể.
Đây là thảm kịch vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử loài người. Trong một thời kì có khí hậu bình thường, không có
chiến tranh hay dịch bệnh mà lại có đến hàng chục triệu người bị đói đến chết
và thậm chí phải ăn cả thịt người, thì quả là chưa từng có trong lịch sử thế
giới.
Trong thời kì ấy và nhiều thập niên
sau đó, sách báo và các văn bản chính thức soạn ở Trung Quốc tích cực tránh né
và che giấu thảm kịch khủng khiếp này. Cán bộ ở mọi cấp chính quyền đều không
hé môi về chủ đề người dân đói dần đến chết. Cán bộ ở mọi cấp chính quyền giả
mạo số liệu thống kê về số người chết và cắt giảm số liệu bằng mọi phương tiện
có trong tầm tay. Để vĩnh viễn che giấu chuyện này, chính quyền đã ra lệnh hủy
toàn bộ dữ liệu ở tất cả những tỉnh báo cáo dân số giảm đi hàng chục triệu
người.
Những người tị nạn lánh được sang
Hương Cảng và thân nhân của Hoa kiều đã xoay xở loan truyền được chút ít tin
tức về thảm họa này, và dựa trên thông tin này, một số cơ quan truyền thông
phương Tây đã đưa tin về nạn đói ở Trung Quốc. Những bản tin này tủn mủn, vụn
vặt, nhưng chính phủ Trung Quốc đã nhất quyết gọi đó là ‘những trò công kích ác
ý’ và ‘những tin đồn vu khống’.
Nhằm đảo ngược dư luận quốc tế, chính
phủ Trung Quốc đã mời một số ‘người bạn của Trung Quốc’ đến thăm và tận mắt
chứng kiến, với hi vọng họ sẽ viết bài ‘làm sáng tỏ các dữ kiện và sự thật’.
Chính phủ Trung Quốc đã chuẩn bị hết sức thấu đáo cho mỗi chuyến viếng thăm
này, tỉ mỉ dàn xếp từng chặng trong lộ trình của khách mời, bao gồm những nơi
họ sẽ đến thăm, những người họ có thể tiếp xúc, và những điều sẽ nói khi tiếp
khách. Trong những cuộc viếng thăm này, các vị khách nước ngoài bị tách biệt
hẳn với dân thường, và một số nơi thậm chí còn trưng ra những người được ăn
uống đầy đủ và áo quần chỉnh tề.
Phương Thực (方實), lúc đó là Phó trưởng ban đối nội của Tân Hoa Xã, có lần
được giao nhiệm vụ tháp tùng các vị khách nước ngoài trong chuyến tham quan
tỉnh An Huy. Về già, ở tuổi 85, ông kể với tôi cách Tỉnh ủy An Huy lừa dối
khách nước ngoài như thế nào (được mô tả ở phần sau trong cuốn sách này). Những
vị khách bị lừa gạt này lúc về nước đăng những bài báo dựa trên ‘những điều mắt
thấy tai nghe’ của họ, ca ngợi ‘những thành tựu vĩ đại’ của Trung Quốc, cho
rằng Trung Quốc lúc đó không bị nạn đói và người dân Trung Quốc đủ ăn đủ mặc.
Nhà báo Anh Felix Greene, trong tác
phẩm nổi tiếng của ông về Trung Quốc in năm 1965, Tấm màn ngu tối (A
Curtain of Ignorance), viết rằng trong năm 1960 ông đã đi khắp Trung Quốc trong
thời kì mà ngũ cốc được chia khẩu phần rất eo hẹp, nhưng chẳng hề thấy dấu hiệu
nào của nạn đói đại trà. Nhà báo Mỹ Edgar Snow (tên ông đã trở nên quen thuộc ở
Trung Quốc) là một trong những người bị Trung Quốc lừa gạt rồi truyền bá sự dối
trá đó sang người khác. Tân Hoa Xã dịch tất cả những bài báo nước ngoài này
sang tiếng Trung như “hàng xuất khẩu bán ở thị trường nội địa’ để phổ biến
trong Tin tức tham khảo (參考消息)
và Tư liệu tham khảo (参考資料)
nhằm làm công cụ thống nhất dư luận và đàn áp những quan điểm khác trong nước.
Khoảng 20 năm sau những sự kiện này,
một số học giả nước ngoài và người Hoa sống bên ngoài đại lục bắt đầu nghiên
cứu và báo cáo về thảm họa vô tiền khoáng hậu này. Những nghiên cứu này có giá
trị cao, nhưng vì các tác giả không ở trong nước, họ không tiếp cận được những
tư liệu nội bộ trong các văn khố lưu trữ chính thức của Trung Quốc, nên kết quả
nghiên cứu của họ chưa đầy đủ.
Từ đầu thập niên 1990, tôi tận dụng
những chuyến công tác của mình để tham khảo những tư liệu liên quan trên khắp
đất nước và phỏng vấn những người đã sống sót qua nạn đói đó. Tôi đi từ miền
Tây Bắc xuống Tây Nam, từ Hoa Bắc sang Hoa Đông, từ vùng Đông Bắc xuống Hoa
Nam, tham khảo văn khố lưu trữ ở hơn chục tỉnh và phỏng vấn hơn một trăm nhân
chứng. Sau mười năm nỗ lực, tôi đã tích lũy văn bản tổng cộng hàng triệu từ và
mười cuốn sổ ghi chép các cuộc phỏng vấn. Bằng cách này tôi có được hiểu biết
toàn diện và sâu sắc về những hoàn cảnh thực sự của Nạn đói 1958-1961.
Đối mặt với những hậu quả trầm trọng
của Nạn đói 1958-1961, Lưu Thiếu Kỳ có lần nói với Mao Trạch Đông, ‘Lịch sử sẽ
ghi lại vai trò của đồng chí và tôi trong chuyện quá nhiều người dân bị đói, và
nạn ăn thịt người cũng sẽ được khắc ghi!’.[xi]
Mùa Xuân năm 1962, trong một lần nói chuyện với Đặng Lực Quần (鄧力群), Lưu Thiếu Kỳ một lần nữa lại nhắc rằng ‘những cái chết
vì đói sẽ được ghi lại trong sử sách’. Tuy nhiên, sau hơn bốn mươi năm, không
có cuốn sách nào như vậy về Nạn đói 1958-1961 được xuất bản ở Trung Hoa đại
lục. Điều đó không chỉ đáng tiếc từ góc độ lịch sử mà còn xúc phạm đến kí ức về
hàng chục triệu nạn nhân vô tội. Tôi đã dành nhiều năm trời để hoàn tất cuốn
sách này. Cuốn sách này có thể xem như bia mộ dành cho hàng chục triệu linh hồn
đói khát đó, và tôi hi vọng nó sẽ phần nào an ủi cho họ.
Lưu Thiếu Kỳ cũng từng nói rằng thảm
họa này nên được khắc bia tưởng niệm làm di tích ‘truyền lại cho con cháu chúng
ta để một lỗi lầm như vậy sẽ không bao giờ tái diễn’. Phải, nên dựng một đài
tưởng niệm lớn cho một sự kiện lịch sử trọng đại như vậy như một lời cảnh báo
cho các thế hệ tương lai. Tôi tin rằng chỉ một cuốn sách của tôi sẽ không đủ để
khắc ghi sâu trong tâm trí bài học lịch sử này. Đã có những đài tưởng niệm cho
nạn nhân trận động đất Đường Sơn, cho Hiroshima và Nagasaki, và cho các nạn
nhân của Chiến tranh Thế giới thứ hai trên khắp châu Âu. Trung Quốc cũng nên
dựng những đài tưởng niệm các nạn nhân của Nạn đói 1958-1961 ở những nơi tập
trung số người chết nhiều nhất, ví dụ như Tín Dương, Thông Vị, La Định, Hào
Châu, Phụng Dương, Tuân Nghĩa (遵義,
tỉnh Quý Châu), Kim Sa (金沙, tỉnh Quý Châu), huyện Bì (郫縣, Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), huyện Vinh (榮縣, tỉnh Tứ Xuyên), Phong Đô (豐都, Trùng Khánh, Tứ Xuyên), Đại Ấp (大邑, Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên), Quán Đào, Tế Ninh, v.v… và ở
tỉnh lị của những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đó là Tứ Xuyên, An Huy, Quý
Châu, Hà Nam, Sơn Đông, Cam Túc và Thanh Hải, cũng như ở quảng trường Thiên An
Môn ở Bắc Kinh. Những đài tưởng niệm này sẽ không chỉ tưởng nhớ người chết mà
còn để nhắc nhở đến tai họa này, từ đó có thể rút ra bài học để ngăn chặn sự
tái diễn của một thảm kịch như vậy trong tương lai.
III.
Dù đất canh tác giảm đi và dân số gia
tăng 200 triệu trong thập niên 1980 và 1990, nguồn cung cấp ngũ cốc của Trung
Quốc nay dồi dào hơn bao giờ hết; giới trẻ không biết đói là gì, và nông dân
thậm chí khó bán hết thu hoạch vụ mùa của mình. Tất thảy những thành quả này
đều nhờ những thay đổi về hệ thống nông nghiệp của Trung Quốc kể từ khi Công xã
Nhân dân được thay thế bằng hệ thống trả công gắn với sản lượng, và điều đó
chứng tỏ ảnh hưởng quan trọng của một hệ thống đối với nạn đói.
Amartya Sen, người đoạt giải Nobel
[Kinh tế] năm 1998 nhờ những nghiên cứu của ông về nạn đói, đã viết:
Trong lịch sử khủng khiếp của những
nạn đói trên thế giới, chưa có một nạn đói lớn nào từng xảy ra ở một nước độc
lập và dân chủ với nền báo chí tương đối tự do. Bất kể tìm ở đâu, chúng ta
không tìm được ngoại lệ cho quy tắc này: những nạn đói gần đây ở Ethiopia,
Somalia, hay những chế độ độc tài khác; những nạn đói ở Liên Xô trong thập niên
1930; nạn đói 1958-1961 của Trung Quốc với thất bại của “Đại nhảy vọt”; hay
thậm chí xưa hơn nữa, những nạn đói ở Ái Nhĩ Lan hay Ấn Độ dưới ách đô hộ của
ngoại bang. Dù kinh tế về nhiều mặt khá hơn Ấn Độ, Trung Quốc (khác với Ấn Độ)
vẫn để xảy ra nạn đói, thực ra là nạn đói lớn nhất được ghi nhận trong lịch sử
thế giới: gần 30 triệu người chết trong nạn đói thời kì 1958–1961, trong khi
những chính sách sai lầm của chính phủ vẫn không được sửa đổi trong suốt ba năm
đó. Những chính sách này không bị chỉ trích vì không có đảng đối lập trong quốc
hội, không có nền báo chí tự do, và không có bầu cử đa đảng. Quả thực chính
tình trạng thiếu phản biện đã để cho những chính sách hết sức sai lầm này tiếp
diễn mặc dù chúng giết chết hàng triệu người mỗi năm.[xii]
Thực vậy, nguyên nhân cơ bản khiến
hàng chục triệu người ở Trung Quốc chết đói là chế độ cực quyền (totalitarianism
– cũng còn gọi là chế độ toàn trị). Dĩ nhiên tôi không nói rằng chế độ cực
quyền tất yếu sẽ dẫn đến những tai họa trên quy mô lớn như vậy, nhưng trong chế
độ cực quyền những chính sách vô cùng khiếm khuyết sẽ dễ xuất hiện hơn, và sau
này muốn sửa đổi những chính sách đó sẽ khó hơn. Một điều quan trọng hơn nữa là
trong hệ thống này, chính phủ độc quyền thâu tóm mọi sản phẩm và nguồn duy trì
sự sống, để rồi một khi thảm họa ập đến, người dân thường không có phương tiện
tự cứu mình và chỉ còn ngồi chờ chết.
Trong lĩnh vực chính trị và tư tưởng,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa áp dụng chế độ chuyên chính vô sản toàn diện, đàn
áp không thương tiếc bất cứ người bất đồng chính kiến nào. Về mặt kinh tế, nước
này thực hiện một nền kinh tế kế hoạch tập trung hóa cao độ trong đó chính phủ
nắm độc quyền với tất cả mọi nguồn lực kinh tế. Về mặt ý thức hệ, nước này thực
hiện độc quyền nghiêm ngặt về thảo luận và suy nghĩ, và không cho phép bày tỏ
những quan điểm khác biệt. Bản thân Mao Trạch Đông mô tả đặc trưng của hệ thống
chính trị này là ‘Marx cộng với Tần Thủy Hoàng’. Hệ thống này kết hợp kiểu
chuyên quyền tập trung cao độ của Liên Xô với kiểu chuyên chế mà hoàng đế đầu
tiên của Trung Quốc đã áp đặt hơn 2.000 năm trước, và đã dần dần trở nên chặt
chẽ hơn qua những triều đại kế tiếp. Kết quả là sự lạm dụng quyền lực hành pháp
trầm trọng hơn sự lạm dụng của Liên Xô, hay của bất cứ hoàng đế nào của Trung
Quốc. Đó là một hệ thống chuyên chính đúng nghĩa.
Chế độ chuyên chế Trung Quốc bắt đầu
từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công nguyên, và
đã lưu lại nhiều dấu tích lịch sử trong quá trình hơn hai nghìn năm. Đảng Cộng
sản Trung Quốc đã kế thừa hệ thống này một cách hiệu quả, và mặc dù sự cai trị
của Đảng chỉ là đoạn kết của chế độ chuyên chế phong kiến Trung Quốc, Đảng Cộng
sản Trung Quốc có được vũ khí, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc và những phương pháp tổ chức hiện đại, nên Đảng càng nắm quyền kiểm soát
vừa rộng vừa sâu đối với xã hội, hệ thống công quyền, và người dân với mức độ
chặt chẽ hơn và chi li hơn mà chế độ chuyên quyền phong kiến trước kia chưa hề
đạt đến. Cái thòng lọng này thắt chặt mọi cơ chế hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa và ý thức hệ của xã hội và mọi khía cạnh đời sống thường nhật. Quyền
lực cưỡng bức của chế độ độc tài thâm nhập vào mọi ngóc ngách của thậm chí
những làng mạc hẻo lánh nhất, chạm đến từng thành viên trong từng gia đình, và
len lỏi vào tâm can của từng người. Gọi chế độ này là ‘cực quyền’ nghĩa là nói
đến sự bành trướng của quyền lực hành pháp đến mức cùng cực.
(Còn 1 kì)
Nguồn: Tạp chí “Trung Hoa đương đại” (2010), số 19
(66), tháng 9, trang 755-776). Bản tiếng Anh.
Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra;
© 2012 Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ
___________________________
Lời cảm tạ: Chúng tôi, những người dịch, xin chân thành cám ơn những
người bạn thân đã cổ vũ và giúp đỡ rất nhiều, chẳng hạn như tìm giúp cho bản
tiếng Hán, bớt thời gian quý báu của mình đọc trước bản dịch và đóng góp nhiều
ý kiến xác đáng.
Lưu ý về chú thích:
- Chú thích của tác giả sẽ viết tắt
là TG.
- Chú thích của người dịch bản tiếng
Anh sẽ viết tắt là TA.
- Chú thích của người dịch bản tiếng
Việt sẽ viết tắt TV.
- Tên riêng nào (chỉ còn có hai cái)
chúng tôi chưa tra được nguyên văn tiếng Hán, đành phỏng đoán sát nhất và đánh
dấu hoa thị (*).
[i] TA:
Văn Nhất Đa (1899–1946), người phê phán chính phủ Quốc dân Đảng, đã chết dưới
tay Quốc dân Đảng. Chu Tự Thanh (1898–1948), một người chống đế quốc, đã chết
vì đói sau khi từ chối thực phẩm viện trợ của Mỹ. Ngược lại, cả Trần Dần Khác
(1890–1969) và Ngô Mật (1894–1978), là những học giả văn hóa cổ truyền được đào
tạo ở nước ngoài và cố giữ khoảng cách với Đảng Cộng sản. Họ Ngô bị tra tấn
trong Cách mạng Văn hóa.
No comments:
Post a Comment