Viên Linh
Wednesday,
August 15, 2012 6:26:21 PM
Trong giới văn học ở miền Nam, và ở hải ngoại, Ðào Mộng Nam là
một cái tên rất nhiều người biết, những người không đọc sách cũng biết đến ông,
vì ông là người đã phụ trách chương trình Chữ Nho Tự Học trên vô tuyến truyền
hình, lại từng “dạy tại Ðại Học Huế,” thế nhưng ngoài bộ sách 5 cuốn Chữ Nho Tự
Học ra, dường như ông không có một tác phẩm nào khác.
Ðào
Mộng Nam với chiếc áo nâu cài kín cổ thường xuyên. (Hình tư liệu của Viên Linh
Người
viết bài này có một tác phẩm của ông, Thơ Ðường, cuốn I, 1980, 106 trang, đánh
máy, đóng thành tập song chưa được in, và đã giao du với ông vài chục năm từ
Sài Gòn trước 75, và ở hải ngoại sau này, song không được ông mời tới nhà bao
giờ - mà có lẽ chẳng ai biết nhà ông - bởi khi ông qua đời nhiều ngày rồi mà
người ta cũng chỉ biết là do cảnh sát Mỹ nhờ các đài phát thanh Việt ngữ “tìm
thân nhân một người tên là Nam Dao.”
Sáng Chủ Nhật, 27
tháng 8, 2006,
nữ sĩ Thu Nhi gọi điện thoại tới tòa báo Khởi Hành, cho biết bà vừa nghe tin
cảnh sát thành phố Tustin tìm thân nhân ông Nam Dao, chết trong một chung cư đã
nhiều ngày, mà vì người này sống một mình nên phải mấy ngày sau lối xóm lưu tâm
mới phát giác ra. Nữ sĩ nói với tôi rằng theo bà, có lẽ Nam Dao là Ðào Mộng
Nam.
Tới Thứ Tư, báo Người Việt
loan tin học giả Ðào Mộng Nam, dịch giả thơ Tagore “Tiếng Hát Dâng Tình” qua
đời, thọ 66 tuổi. Có lẽ Ðào Mộng Nam rất thích thơ của vua Salomon trong Kinh
Thánh, và có dịch lại một số đoạn trong thiên “Nhã ca của Sa lô môn,” gọi là
“khúc hát dâng tình.” Ông nhiều lần in ấn vài cuốn sách khác nhau, đều ghi “Lời
Vàng” xuất bản, như cuốn sách khổ rất lớn, bằng nửa tờ nhật báo, rất dầy, 240
trang in giấy croquis, nhan đề “Tổ khúc bầy chim bỏ xứ” của Phạm Duy, mà trong
đó ông chỉ có 8 câu thơ cảm đề.
Vào hôm sau, Thứ
Năm, 31 tháng 8,
theo cáo phó trên báo của ông Ðào Ngọc Liêm, em trai học giả, thì Ðào Mộng Nam sinh ngày 1
tháng 1, 1941 tại Nam Ðịnh, mất ngày 26 tháng 8, 2006 tại Tustin, California;
bản cáo phó chỉ đứng tên 3 người em và các cháu. Cũng trong ngày này, theo một
bài báo 3 cột đăng trên tờ Việt Báo, có nhan đề “Giấc mộng văn hóa không thành,
Ðào Mộng Nam,” thì có vài điểm như sau:
-
Ông sinh năm 1940 (không phải 41 như trong cáo phó của mấy người em), đã khởi
soạn cuốn Chữ Nho Tự Học khi chưa đến tuổi 30, và đây là “một công trình hoàn
chỉnh nhất về phương pháp tự học Chữ Nho kể đến năm 1975.”
-
Ðào Mộng Nam mất chính xác vào lúc nào không ai rõ. Ông sống đơn độc, biệt lập
nơi một chung cư cuối đường McFadden. “Cảnh sát chỉ được thông báo khi hàng xóm
nhận ra mùi tử thi của thân xác đang bị hủy hoại.” (theo báo trên)
Theo
chỗ người viết bài này biết, người thân nhất về sinh hoạt văn hóa với Ðào Mộng
Nam là Bác Sĩ Bùi Duy Tâm (còn ở San Francisco như cách đây 6 tháng, 2012, thấy
trên thư liên lạc với Khởi Hành). Ông cho biết bộ sách của người quá cố có nhan
đề là Chữ Nho Tự Học gồm 1882 chữ, năm 1970 tái bản lần đầu in 15,000 cuốn
thành công rực rỡ (kỳ xuất bản trước đó in xấu hơn). Chính Bác Sĩ Tâm đưa tác
giả vào dạy chữ Nho cho đoàn Gió Khơi và chương trình TV của Gió Khơi; cũng
chính ông đưa Ðào Mộng Nam vào dạy chữ Nho “tại Viện Ðại Học Huế,” như trong
bài ông viết đăng báo hôm 31 tháng 8, 2006. Theo nhà thơ Trần Thiện Hiệp từ Sài Gòn nhắn qua y-meo
của tôi, ông đã tổ chức tưởng niệm Ðào Mộng Nam ở Sài Gòn, có vài chục thân hữu
tham dự. Tang lễ Ðào Mộng Nam diễn ra ngày 2 tháng 9 tại nghĩa trang Peek
Family, Westminster, Calif.
Trên
tạp chí văn học Khởi Hành, Ðào Mộng Nam đã đăng ít nhất 3 bài: Thơ Tình của Hải
Thượng Lãn Ông (1724-1791); Hai Con Hạc Trắng (bàn về thơ hạc với Thôi Hiệu,
Tản Ðà và Vũ Hoàng Chương), và bài “Bùi Giáng, chân dung và giai thoại.” Còn
một di cảo chúng tôi chưa kịp đăng thì tác giả đã ra người thiên cổ, đó là một
bài viết dài về thơ Tạ Ký, phê bình Võ Phiến khi viết bộ Văn Học Miền Nam, Thơ,
đã không có mục nào dành cho Tạ Ký.
Ðào Mộng Nam là
người thế nào?
Xin
đọc một đoạn bình thơ của ông, sau khi ông kể lại “chuyện tình dang dở giữa Hải
Thượng Lãn Ông, vị lương y siêu thoát thời Trịnh Nguyễn phân tranh - được Trịnh
Sâm khen là “đấng Thánh đã siêu thoát trên các điều tục lụy,” và một công nương
con quan Thừa Tư trấn Sơn Nam; vì ông từ khước mà nàng phải đi tu. Một năm sau
ông hồi tâm xin gặp lại thì nàng từ chối. Họ Ðào viết: “Một mối duyên lỡ dở mà
dân tộc có được hai đấng: một Thánh một Phật xuất trần, chuyện buồn hay vui,
đáng khóc hay nên cười?” Ðó là một lối phát biểu ngang xương của Ðào Mộng Nam.
(KH số 5, 3.1997).
Ở
chỗ khác, khi bàn về hai bản dịch Hoàng Hạc Lâu thơ Thôi Hiệu đời Ðường của Tản
Ðà và Vũ Hoàng Chương, Ðào Mộng Nam phê: “Hai người cả hồn lẫn xác đã hòa tan
vào cõi thơ, sau đó mới ‘hóa kiếp’ được bài Hoàng Hạc Lâu thành hai đỉnh thơ
cao vời khác: Tìm viếng cảnh Lầu Hạc Vàng của Tản Ðà và Vũ Hoàng Chương, ta
thấy hai ngôi lầu này chân đế của nó kê bằng hai tảng kim cương bất hoại, là
hai bài Thề Non Nước [của Tản Ðà] và Nguyện Cầu [của Vũ Hoàng Chương.] (KH số
6, 4.1997). Rất ngắn gọn thôi, lối phê bình nhận định văn chương của Ðào Mộng
Nam có một giá trị riêng, dù người đọc thích hay không thích: ông viết với hình
tượng, chủ quan, với tiềm năng cảm thức nghiền ngẫm và một viễn kiến tái tạo
dựng lại cảnh giới của đề tài, phải kể là đã làm khác đi một sự việc đã cũ đã
cổ, và đó là điều đặc biệt đáng tán thưởng.
Với
kỷ niệm riêng, Ðào Mộng Nam đã làm tôi gần ngất xỉu, phải bỏ chạy ra khỏi tòa
soạn Khởi Hành hồi ở Santa Ana, là khi anh há miệng cười vang, tôi nghe xung
quang mùi một tấn thuốc lào vần vũ cùng cái ống điếu với bát nước khai nồng bể
vỡ trên bàn. Tuy vậy khi tôi trở vào, cái điếu bát trông vẫn nguyên vẹn như
thường, và bạn tôi lại sắp ngậm đôi môi vạm vỡ màu nâu vào cái xe điếu cong
queo, mồi ngọn lửa châm bằng miếng giấy vụn vào cái bát điếu bằng sứ bên trong
quánh đặc một màu nước đen nâu đã sôi suốt một buổi chiều. Hình ảnh ấy đã át đi
cái hình ảnh tôi nghe kể lại, là người ta thấy anh nằm sóng soài trên lối đi
trong nhà, từ phòng ngủ vào phòng kế cận, cả mấy ngày.
(VL,
viết ngày 15 tháng 8, 2012, trước ngày kỵ thứ sáu của bạn)
No comments:
Post a Comment