Posted on July 1, 2012 by hoanghaithuy
Ðầu năm 1990 – Tết Nguyên Ðán qua được một tháng – tôi
mãn án Tù Khổ Sai Cộng Sản 6 năm. Tôi ra khỏi Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, Xuân Lộc
lúc 9 giờ sáng. Người Tù Khổ Sai Án 20 Năm Lê Mạnh Thát đưa tiễn tôi ra cổng
trại.
CÔNG TY RỬA TIỀN. Hoàng Hải Thủy dịch năm 1992 ở Sài Gòn.
Nguyên bản THE FIRM của JOHN GRISHAM.
Trại Tù giờ ấy vắng tanh, tù nhân đi ra ngoài làm khổ
sai, Người Tù Lê Mạnh Thát ở nhà làm việc dịch sách nên tôi được ông đưa tiễn.
Các con tôi mướn chiếc xe Jeep Dân Sự đến cổng trại đón
tôi về. Khoảng ngày này năm trước tôi từ Nhà Tù Chí Hoà đến Trại Tù Khổ Sai này
cùng khoảng 30 bạn tù trên xe cam-nhông của Nhà Tù Chí Hoà, tù ngồi trên sàn,
còng một chân vào cây sắt dài, năm nay nhờ các bạn tôi ở Mỹ, Úc, Pháp – và hai
tổ chức Văn Bút Phần Lan – PEN Finlande – Chi Hội Ân Xá Quốc Tế Melbourn, Úc –
Amnesty Intern. – gửi tiền về giúp, vợ tôi có tiền. Vợ tôi mướn nguyên chiếc xe
Jeep gần như mới toanh cho con tôi lên Trại đón tôi về. Chuyến xe đi về trong
nửa ngày năm ấy là 100.000 đồng tiền Hồ. Vợ tôi mua cái TiVi Sanyo Mầu mới
toanh để sẵn cho anh chồng đi tù về xem.
Ngày tôi đi tù – lần thứ hai – một sáng Tháng Năm 1984,
Sài Gòn rách te tua, nghèo lõ đít, cả Sài Gòn chưa có cái gọi là đầu Máy Video
nào. Sáu năm sau, hôm nay tôi về, Sài Gòn đầy máy TiVi Mầu, đường phố Sài Gòn
cứ cách 300 mét có một nhà cho mướn đầu máy và phim Video.
Trong số những người bạn đến nhà thăm tôi sớm nhất có hai
anh Bút và Lê Kiêm. Bút trước 75 có làm báo, được gọi là Bút Pác-ke – Bút
Parker – Lê Kiêm được Bút giới thiệu là con trai Nhà Văn Lê Văn Trương. Hai anh
trẻ hơn tôi khoảng 10 tuổi.
Bút và Lê Kiêm nói:
- Nay anh có thể sống với việc viết truyện được rồi. Bây
giờ tiểu thuyết, truyện dịch được xuất bản dài dài. Có anh lái sách là Văn Cứ,
ở đường Hồng Thập Tự, biết chúng tôi quen anh nên nhờ chúng tôi nói với anh:
hắn muốn nhờ anh viết tiểu thuyết để hắn xuất bản.
Tôi nghe mà mừng quá là mừng. Từ Tháng Năm năm 1975 không
một lần tôi mơ có ngày tôi lại được viết tiểu thuyết ở Sài Gòn. Phải kể ngay về
tình trạng xuất bản tiểu thuyết ở cái gọi là “Thành Phố Hồ chí Minh năm 1990.”
Trước năm 1988 toàn cõi Việt Nam Cờ Máu không có tiểu thuyết – thứ tiểu thuyết
giải trí người đọc – Sau khi Liên Xô sụp đổ, Tượng Lenin, Tượng Stalin ra nằm
sấp, nằm ngửa ở những bãi rác, chủ nghĩa cộng sản bị vứt vào hố xí, bọn Cộng Hà
Nội bị bắt buộc phải làm vài trò đổi mới. Ðể có tiền sống, bọn Cộng Trung Ương
thay vì rót tiền cho bọn Cộng các Tỉnh, nay bắt bọn Cộng các Tỉnh, Quận phải tự
kiếm tiền, tự nuôi, không những chỉ để sống mà còn phải có tiền nộp cho Trung
Ương Ðảng. Do đó về cái gọi là “văn hoá xã nghĩa thổ tả” xẩy ra tình trạng kỳ
cục và đáng tởm là những phim video Khiêu Dâm của Âu Mỹ, những phim bị coi là
đồi trụy bị cấm chiếu ở nhà dân, bị tịch thu ở những nhà cho muớn phim video,
nhưng được chiếu ở những nhà Văn Hoá Tỉnh, Văn Hoá Quận. Cán bộ văn hoá chiếu
phim Video Con Heo – gọi riễu là Phim Chăn Nuôi, xuất từ tiếng Pháp Cinema
Cochon – cho dân xem để lấy tiền. Phải chiếu phim Con Gái Nhà Nghèo Thiếu Quần
Áo dân mới đến xem, dân có đến xem cán bộ mới có tiền. Nhà Văn Hoá chiếu phim
Bác Hồ ngồi gù lưng dịch Lịch Sử Ðảng Cộng Sản Liên Xô ở Hang Pắc Bó, chó nó
cũng không thèm xem.
Mỗi Ty gọi là Văn Hoá Tỉnh có một nhà xuất bản sách. Mỗi
năm những nhà xuất bản này được quyền xuất bản một số sách tiểu thuyết. Những
anh gọi là cán bộ văn hóa được giao quyền xuất bản tiểu thuyết ở những nhà xuất
bản này mù tịt về tiểu thuyết, các anh về Sài Gòn bắt mối với những người Sài
Gòn có tiền, có hiểu biết về tiểu thuyết, biết giao tiếp với những người viết
được tiểu thuyết để cộng tác xuất bản. Và nhất là những người Sài Gòn này có
điều kiện, có kinh nghiệm phát hành sách, đưa sách đến với người đọc khắp nơi.
Những nguời Sài Gòn này được gọi là “Lái Sách.” Lái Sách
là người dân Sài Gòn chân chính, họ làm việc xuất bản tiểu thuyết để kiếm tiền.
Họ tìm gặp một số Thợ Viết Sài Gòn trước 1975 nay còn viết được, đặt những tay
Thợ Viết này viết truyện, in ra, đem bán. Trả tiền sòng phẳng, chỉ với điều
kiện là người Thợ Viết nổi tiếng, hay có đi tù vì tội phản động, không được
dùng tên, bút hiệu của mình trước năm 1975, mấy trự phải để tên tác giả mới. Họ
trả một số tiền trên mỗi quyển tiểu thuyết cho bọn cán bộ đứng tên Nhà Xuất
Bản, tiền này gọi là “Xuất bản phí.” Bọn Cán Cộng Văn Hóa có khoản tiền mà
không phải làm gì cả.
Lái Sách Văn Cứ có cửa tiệm ở đường Hồng Thập Tự. Một số
vi-la ở đường này cho mở những quán nhỏ ở đằng trước vi-la làm tiệm sách. Văn
Cứ là người Lái Sách thứ nhất tôi gặp và mua truyện tôi viết, chi tiền cho tôi
ở Sài Gòn sau 1975.
Tôi gặp Văn Cứ, nói chuyện, giao hẹn với anh xong, việc
đầu tiên của tôi là mua cái máy đánh chữ. Cái máy chữ hiệu Brother có dấu Hỏi,
Ngã do Tòa báo Tiền Tuyến tặng tôi năm 1968 đã bị bọn Công An Thành Hồ đến nhà
bắt tôi lần thứ nhất – năm 1977, cái may chữ của tôi bị coi là tang vật trên đó
tôi phạm pháp – viết bài tả oán, tả khổ gửi ra nước ngoài – lấy đi mất.
Truyện thứ nhất của tôi được Văn Cứ mua và xuất bản năm
1990 là tiểu thuyết sáng tác “Trên Ðỉnh Tình Yêu.” Rồi truyện dịch “Không
Tìm Thấy Mộ.” Truyện này nguyên là truyện phơi-ơ-tông “Tiếng Ca Cá Sấu”
tôi phóng tác theo bản truyện tiếng Pháp “Le Chant d’Alligatore” của
tiểu thuyết gia người Mỹ Harry Whittington. “Tiếng Ca Cá Sấu” đã được
tôi phóng tác, đăng báo và xuất bản khoảng năm 1970. Nay tôi viết lại, để tên
là “Không Tìm Thấy Mộ ” theo tên nguyên bản tiếng Mỹ là “Never find
Sanctuary.”
Rồi việc viết tiểu thuyết bán cho Lái Sách Sài Gòn đưa
tôi đến gặp hai anh Minh và Nam. Minh là thanh niên Hà Nội, vào Sài Gòn làm ăn,
Minh có biệt hiệu là Minh Bắc. Nam là thanh niên Sài Gòn, là nhân viên Nhà Xuất
Bản của Minh. Hai anh trạc tuổi các con tôi, ra đời những năm 1956, 1957. Hai
anh rất trọng tôi. Hai anh gọi tôi là chú. Minh nói tôi có lối nói, cử chỉ rất
giống ông thân của anh, ông thân anh đã qua đời. Nam vừa đi làm vừa học thi cử
nhân Anh văn, Kinh tế. Trong cuộc đời bán tiểu thuyết, dịch truyện Âu Mỹ lấy
tiền công của tôi, Minh và Nam đối với tôi tốt nhất, làm tôi ấm lòng nhất.
Tiền công dịch được tính theo số trang quyển truyện tiếng
Mỹ: 7.000 đồng tiền Hồ một trang. Quyển truỵện 300 trang nhân với 7.000 đồng.
Trước năm 1975 tiền công dịch của tôi được trả trên bản đánh máy chữ Việt của
tôi. Nay Minh đưa cho tôi một quyển truyện mới được xuất bản ở Mỹ, do người của
Minh mua từ Mỹ gửi về, trả trước ngay cho tôi khoảng một nửa tiền công dịch:
giả như là 100.000 đồng. Mỗi ngày tôi dịch khoảng 10 trang. 30 ngày dịch xong,
tôi mang bản thảo vào giao cho Minh. Anh chi tôi 100.000 đồng, và đưa cho tôi
dịch quyển khác. Có những lần Nam dắt xe Honda của tôi từ trong nhà ra đường,
đạp xe cho máy nổ rồi mới đưa xe cho tôi đi. Tôi cẩn thận để bọc tiền trong cái
sắc, cho vào trong cái giỏ sắt trước ghi-đông xe, khoá nắp giỏ lại rồi mới lên
xe thơ thới phóng về nhà. Những buổi sáng đi giao truyện, lấy tiền như thế tôi
thường đi khỏi căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi trong Cư Xá Tự Do lúc 9 giờ sáng,
tôi về nhà lúc gần 12 trưa. Vợ tôi đang nấu ăn duới bếp. Lịch kịch dắt xe vào
nhà, dựng xe xong, tôi báo tin vui cho vợ tôi:
- Có truyện mới.
Có truyện mới để dịch là tháng ấy tôi có việc làm, tiếng
máy chữ gõ lách tách reo vui trong nhà tôi, và tháng sau vợ chồng tôi có
200.000 đồng tiền Hồ.
Từ năm 1992 đến hết năm 1994 vợ chồng tôi vĩnh biệt Sài
Gòn để sang Hoa Kỳ, tôi dịch cho Minh và Nam khoảng 5, 6 bộ truyện Mỹ: Công
Ty Rửa Tiền – The Firm của John Grisham, Bản Báo Cáo Bồ Nông – The
Pelican Brief của John Grisham, Mang Xuống Tuyền Ðài – The Chamber
của John Grisham, Hắc Lâm Cuồng Nộ – A Rage in Harlem của Chester Himes,
Tiếng Kêu của Máu – Red Dragon của Thomas Harris.. .. ..
Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm
tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy
ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng
rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm
chết người, vụ án kéo dài nhiều năm, nay án tử sắp được thi hành. Adam, một
luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để
cứu ông nội anh khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của
Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam
ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân – nhưng không ly dị – với ông
chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay,
tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ
chồng với một gã đàn ông.
John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber,
tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh
con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô
Lee. Tôi nhắc lại: tác giả John Grisham không viết rõ như thế, tôi đọc và tôi
cảm thấy như thế.
Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố
Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu, hai cháu: Adam cháu trai,
Carmen cháu gái.
Mang Xuống Tuyền Ðài. Trích:
Trong tang lễ ở nhà thờ, người ngồi cạnh Carmen là một
thiếu phụ xa lạ và kỳ bí được gọi là cô Lee. Ðến lúc này anh em Adam mới biết
cô Lee là cô em ruột ông bố của họ. Cô sống ở Memphis, lấy chồng giầu sang, có
một người con trai. Cô rất ít giao thiệp với ông anh Eddie vì những nguyên nhân
nào anh em Adam không được biết.
Cô Lee đến California dự đám tang ông anh. Cô ở lại hai
tuần và làm quen với cháu trai, cháu gái. Anh em Adam mến cô vì cô đẹp, lịch
sự, dễ thương. Cô dáng người thon thon, cô hay mặc quần jeans xanh, áo thun
Tee. Cô thích đi chân không trên bãi biển. Cô giải thích nhiều lần với hai cháu
tại sao cô không đến thăm cha mẹ chúng và chúng từ trước. Cô nói cô rất muốn
đến nhưng cha chúng, ông anh cô, không bằng lòng cho cô đến. Khi Adam hỏi tại
sao, cô trả lời mơ hồ là tại vì vài chuyện rắc rối của người lớn.
Cô Lee ngồi với Adam trên cầu tầu nhìn ra cảnh mặt trời
vàng ối dần dần xuống trên biển Thái Bình Dương. Trong một buổi hoàng hôn hai
cô cháu ngồi với nhau như thế, cô Lee kể cho Adam nghe về nhân vật Sam Cayhall,
ông bố của cô, ông nội của Adam. Lẫn với tiếng sóng biển vỗ nhẹ dưới chân, chú
thiếu niên lần đầu tiên nghe nói về lai lịch gia đình chú. Câu chuyện cô Lee kể
có nhiều lỗ hổng lớn nhưng nói chung cô cũng thành công trong việc trình bày
cho anh cháu biết đại khái và sơ lược nguồn gốc và tai hoạ trong gia đình cô.
Khi mặt trời hoàn toàn chìm khuất và gió biển bắt đầu trở
lạnh, hai cô cháu ngồi sát vào nhau. Cô ôm lấy cháu và cháu muốn lấy thân che
gió cho cô đỡ lạnh.
Những buổi chiều hai cô cháu ra ngồi ở cầu tầu trở thành
thông lệ trong những ngày cuối cô Lee ở đây. Trên đường ra biển, hai cô cháu
ghé tiệm thực phẩm mua bịch nho hay bịch hạt điều, gói đậu phụng, hộp bích-qui,
lon nước ngọt. Cô cháu ngồi bên nhau ngắm biển, ăn uống lai rai, nói chuyện cho
tới khi trời tối sẫm và gió biển trở lạnh.
Lee đi cũng im lặng và đột ngột như khi nàng đến. Nàng
đến không báo trước, nàng đi không một lời từ biệt, không một cái ôm hôn, không
một lời hẹn hò gặp lại. Một bình minh nàng lặng lẽ ra khỏi nhà Adam. Hai ngày
sau nàng gọi điện thoại cho Adam và Carmen. Nàng khuyến khích hai cháu viết thư
cho nàng, nhưng rồi những lá thư cũng thưa dần..
Mùa hạ năm Adam tốt nghiệp Pepperdine, chàng và một người
bạn học lái xe đi chơi xuyên mấy bang. Họ dừng lại Memphis, ở hai ngày, hai đêm
trong nhà cô Lee. Cô sống một mình trong căn nhà rộng trên đỉnh đồi nhìn xuống
dòng sông. Buổi chiều cô Lee ngồi với Adam và anh bạn trên ban-công, ăn pizza
do cô làm, uống bia và ngắm những chiếc bè di chuyển trên sông. Họ nói với nhau
về đủ mọi thứ chuyện trên đời. Trong lần gặp này, Adam không nói gì với cô Lee
về chuyện gia đình. Chàng đang tính học Luật. Cô Lee hỏi cháu về dự định tương
lai. Cô sốt sắng, vui vẻ, niềm nở, nói nhiều. Cô là bà chủ nhà tuyệt vời và là
bà cô lý tưởng. Khi họ chia tay, mắt cô ưá lệ. Cô ôm cháu thật lâu và bắt anh
hưá anh sẽ trở lại.
Khi là luật sư, Adam về Memphis lo cứu ông nội chàng
thoát án tử hình, nhưng chàng không cứu được ông. Trong mấy ngày cuối trước khi
ông già Sam Cayhall lên ghế điện, cô Lee biến mất. Cô có tật nghiện rượu, cô đã
bỏ rượu nhưng vì bị căng thẳng thần kinh, cô lén uống lại, cô bị cảnh sát bắt
khi cô say lái xe loạng quạng trên đường, cô phải vào dưỡng đường cai nghiện.
Adam đưa ông nội chàng đến cửa phòng tử hình. Nửa đêm.
Chàng lái xe đi lang thang ban đêm trong thành phố. Chàng đến nghĩa trang nơi
người ta sẽ đem xác ông nội chàng đến chôn. Chàng uống bia, chàng say, chàng
dựa lưng vào tấm bia trên mộ bà nội chàng mà ngủ đến sáng.
Ðây là những trang cuối của truyện The Chamber.
Mang Xuống Tuyền Ðài.
Có tiếng xe chạy đến rồi dừng lại trên con đường có rặng
phi lao xanh rì dưới kia. Tiếng cửa xe mở đóng. Adam không nghe thấy những
tiếng ấy. Chàng lại nhắm mắt và chàng lại nhìn thấy ông già trong bộ quần áo
mới, đi đôi giày mới, ngồi trong lòng ghế điện, đôi mắt mở lớn nhìn chàng.
Có người đi đến. Adam không nghe, không biết. Người đến
bước nhẹ đến gần chàng. Một nhánh cây khô gẫy dưới gót giầy làm Adam mở mắt
nhìn lên.
Cô Lee đứng bên chàng. Chàng nhìn cô rồi quay mặt đi.
Lee duyên dáng hạ đầu gối xuống rồi ngồi sát bên anh
cháu, tay nắm cánh tay anh cháu, ngả đầu vào vai anh cháu.
- Cô đến đây làm gì?
Adam hỏi. Lee không trả lời.
- Nửa tháng rồi cô đi đâu?
- Cô ở bệnh viện.
- Ở đâu cô cũng phải phôn về chứ? Tai sao lại không?
- Ðừng giận cô mà. Cô đang cần con yêu thương cô.
Lee áp má vào cánh tay anh cháu.
Vẫn còn hờn giận, Adam nói:
- Con không biết phải nghĩ sao về cô. Việc cô làm không
thể nào tha thứ được.
- Ông có muốn gặp cô không? Ông có nói gì đến cô không?
- Ông con muốn gặp cô lắm. Ông bảo con nói với cô là ông
yêu thương cô, ông nhớ, ông nghĩ đến cô thật nhiều trong những phút chót. Nhưng
cô có nghĩ gì đến ai đâu, cô chỉ biết cô thôi.
- Tội nghiệp cô mà, Adam. Cô sống dở, chết dở trong bệnh
viện. Cô muốn chết, con ơi.. Cô yếu đuối lắm.. Cô cần được yêu thương, được
nâng đỡ..
Thấy Lee nhìn hai lon bia chưa mở, Adam vội quăng hai lon
bia đó ra xa.
- Cô không uống nữa đâu.
Lee nói như van xin, như năn nỉ. Giọng nói của bà nghe
thật đáng thương. Khuôn mặt đẹp của bà có vẻ mệt mỏi.
- Cô có tới để gặp ông. Lee nói.
- Hồi nào?
- Tối qua. Nhưng muộn quá, người ta không cho cô vào.
Trái tim Adam dịu lại. Chàng chẳng nên làm cho bà cô thân
yêu của chàng phải khổ thêm. Bà là người đáng thương, cô đơn, chồng con không
ra làm sao cả, bà nghiện rượu, bà yếu đuối nhưng bà vẫn phấn đấu để bỏ tật xấu
và để sống đường hoàng. Và bà là bà cô ruột của chàng, cô Lee yêu dấu. Giọng
nói của chàng dịu lại:
- Ðến phút cuối cùng ông con còn nói đến cô. Ông dặn con
nói với cô là ông yêu thương cô lắm.
Lần truớc chàng nói với cô câu này bằng giọng nói giận
hờn, trách móc. Lần này chàng nói bằng giọng nói trìu mến pha lẫn kiêu hãnh:
trong dòng họ Cayhall vẫn có tình yêu thương, tình huyết thống, vẫn có những
người Cayhall yêu thương nhau.
- Ông con không trách gì cô vì cô không đến.
Lee khóc. Bà khóc êm, khóc sạch, và bà khóc thật lâu.
.. .. ..
Lee ngừng khóc. Mặt trời vượt lên trên những vòm cây.
Nắng bắt đầu làm cho hai cô cháu thấy nóng.
- Cô rất vui vì con đã về cứu ông – Lee nói – Không hỏi
cô cũng biết việc con về làm ông vui lắm.
- Con thất bại, cô ơi. Con về hay không ông con vẫn thế.
- Con đã làm hết sức của con. Con đừng ân hận. Ðêm đầu
tiên khi con về đây, con có nói với cô là việc cứu ông sẽ rất khó, nhưng con
vẫn lo cứu ông. Con đã đi đến cùng với ông. Thế là đủ. Ở đời không phải cứ đấu
tranh là nhất định phải thắng. Xong rồi. Con hãy bình yên trở về Chicago sống
cuộc đời của con.
- Con không về Chicago đâu.
Cô Lee ngạc nhiên:
- Con đi đâu?
- Con ở lại đây.
- Con ở lại đây làm gì?
- Con vẫn hành nghề luật sư nhưng con không làm công cho
những công ty lớn. Con mở văn phòng riêng của con, chuyên lo việc đại diện cho
những người tù án tử hình.
Lee mở lớn đôi mắt đen còn ướt nước mắt nhìn anh cháu. Bà
mừng vì Adam sẽ sống gần bà nhưng cùng lúc bà lại nghi ngại:
- Con suy nghĩ kỹ đã rồi hãy quyết định. Cô sợ con sống
không nổi ở đây.
Adam không biết chàng cũng bướng và cứng đầu như ông nội
chàng khi chàng nói:
- Không nổi cũng phải nổi.
Ngưng trích.
CT Hà Ðông: Tôi chọn cái tên Mang Xuống Tuyền Ðài
choThe Chamber vì nhân vật ông già Sam Cayhall không phải là thủ phạm vụ
đánh bom làm chết người. Ông là tòng phạm. Năm xưa khi bị bắt, ông không khai
ra thủ phạm. Ông chịu chết mà không khai.
Tôi gửi lời cám ơn đến Minh và Nam, hai anh hiện sống ở
Sài Gòn.
Tôi tặng bài viết này cho những bạn thích đọc những tiểu
thuyết phóng tác, tiểu thuyết dịch của tôi.
Những năm 1992, 1993, khi dịch The Chamber ở Sài
Gòn, nhiều đoạn truyện làm tôi xúc động ưá nước mắt. Hôm nay, một ngày cuối đời
tôi ở xứ người, khi viết bài này, những đoạn truyện tả tình cảnh cô cháu
Lee-Adam vẫn làm tôi xúc động.
Chiều nay đọc lại bài này, nước mắt tôi ứa ra.
Khi dịch The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – tôi
không phải là Công Tử Hà Ðông, tôi là
HOÀNG HẢI THỦY
No comments:
Post a Comment