David Brown
Người dịch: Thủy Trúc
Posted by basamnews
on 19/07/2012
Cũng giống như có thể dự đoán được hàng năm
về những cơn gió mùa thổi qua Biển Đông, câu hỏi nước nào, hay những nước nào,
sở hữu phần nào trên Biển Đông, đang ngày càng trở nên phiền phức qua mỗi năm.
Qua mùa bão, những đội tàu đánh cá lại nhổ
neo và các dự án thăm dò dầu khí dưới đáy biển lại tiếp tục. Thế là một loạt
những đối đầu căng thẳng đã xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, hoặc giữa Trung
Quốc và Philippines. Các nhà ngoại giao yêu cầu tất cả các bên tự kiềm chế, cố
gắng xa tránh những hành động đổ dầu vào lửa.
Câu chuyện rất quen thuộc, và cả một loạt
đòi hỏi thách thức của các bên đều quá phức tạp, đến mức độc giả rất có thể
muốn chuyển sang đọc một chuyện gì khác.
Tuy nhiên, sự thực là những vụ việc gần đây
đã làm thay đổi đánh giá của giới chuyên gia về tranh chấp trên Biển Đông, và
có thể cho thấy con đường đi tới một sáng kiến có ý nghĩa thay đổi cả ván cờ.
Vài năm gần đây, cách hành xử của Trung
Quốc với Việt Nam và Philippines quá đỗi hiếu chiến, đến mức ngay cả những
chuyên gia thân thiện nhất của Trung Quốc cũng khó tìm được lời biện hộ cho họ.
Tới gần đây, tính toán khôn ngoan của Washington vẫn chỉ là, Trung Quốc là một
siêu cường mới nổi, tự mãn, nếu đối xử cẩn thận và tôn kính đối với họ thì có
thể thuyết phục họ trở thành “đối tác chín chắn”.
Tuy nhiên, việc Bắc Kinh khăng khăng yêu
sách rằng họ có chủ quyền “tuyệt đối” trên Biển Đông, tới tận gần bờ biển
Singapore, là không phù hợp với mô hình này. Mà cũng chẳng tương thích với hành
động quấy rối không ngớt của họ nhằm vào ngư dân Philippines và Việt Nam, hay
các nỗ lực phần nào thành công của họ nhằm đe dọa những công ty dầu khí nào có
ký hợp đồng với Manila hay Hà Nội để thăm dò trong vùng đặc quyền kinh tế của
hai nước. Những hành động như thế không thể đi cùng với tuyên bố của Trung
Quốc, cho rằng mục tiêu của họ là hòa bình và ổn định khu vực.
Mộng ước tan vỡ đã bắt đầu với ASEAN và từ
bên trong ASEAN. Nhóm 10 nước này cho thấy chưa đủ đoàn kết để đương đầu với
những thách thức của Trung Quốc. Mặc dù Mỹ, Nhật Bản, Úc và một loạt các nước
khác mong muốn ủng hộ một lối tiếp cận mang tính khu vực nhằm bảo vệ hòa bình,
nhưng ASEAN không thể tiến lên phía trước được. Họ hoạt động trên nguyên tắc
đồng thuận; thật không may cho Manila và Hà Nội, chủ tịch đương nhiệm của ASEAN
lại lệ thuộc vào Trung Quốc, tức là Campuchia. Đáng chú ý, Thái Lan, Myanmar và
Lào cũng không thích va chạm với Bắc Kinh.
Các nước ASEAN đã và đang cố gắng thúc đẩy
đồng thuận về một “bộ quy tắc ứng xử” có tính ràng buộc trên Biển Đông. Vào
ngày 9 tháng 7, trước ngày khai mạc Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) thường niên
với sự tham dự của Mỹ, Trung Quốc và các “đối tác đối thoại” khác, có những
thông tin cho rằng các quan chức cấp cao ASEAN cuối cùng đã đạt được thỏa thuận
về bản dự thảo quy tắc ứng xử. Tuy nhiên, ngược lại, hội nghị đã kết thúc trong
hỗn loạn; các bên tham gia thậm chí không nhất trí nổi với nhau để cho ra một
thông cáo chung.
“Cực kỳ vô trách nhiệm” – Ngoại trưởng
Indonesia cằn nhằn với báo giới. “Trung Quốc đã mua ghế [chủ tịch], chỉ đơn
giản có thế thôi” – một vị quan chức ẩn danh cho biết.
Hơn thế nữa, quan điểm cho rằng Trung Quốc
thật ra không thích đối đầu có vẻ như ngày càng khó tin. Hồi cuối tháng 4, Tổ
chức Nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế (ICG, một viện nghiên cứu có trụ sở ở
Brussels) phát hành một báo cáo được lưu ý rộng rãi, trong đó họ đánh giá Bắc
Kinh thật sự không kiểm soát được tình hình, mặc dù bề ngoài có vẻ ngược lại.
ICG cho rằng, chính quyền trung ương Trung Quốc bị công luận lôi kéo, và bị tê
liệt bởi những sáng kiến thiếu sự phối hợp giữa các lực lượng tuần tra bờ biển,
công ty dầu khí và chính quyền địa phương tại các tỉnh ven biển. Đó là một bản
báo cáo quan trọng, dựa vào rất nhiều cuộc phỏng vấn, và chắc chắn nó phản ánh
thái độ của hàng trăm quan chức ở Trung Quốc và các nơi khác. Tuy thế, cho đến
nay, chỉ trừ vài giờ đầu của cuộc va chạm giữa các tàu hải giám Trung Quốc được
trang bị vũ khí hiện đại với tàu tuần tra của Philippines, tại một vỉa đá cách
Luzon 140 cây số; ngoài ra chưa có gì xảy ra để có thể chứng minh giả định của
ICG về sự thiếu thống nhất trong chính sách nội bộ của Trung Quốc.
Tháng 7 này, khi các nhà ngoại giao Trung
Quốc gạt bỏ bản dự thảo của Bộ Quy tắc Ứng xử ASEAN, đó chỉ là một sự kiện tiếp
theo cho thấy, về bản chất, [bản dự thảo] cần phải có sự phê chuẩn của Trung
Quốc. Chuyện xảy ra ngay sau đó là Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC)
đưa ra một lời mời rất ngạc nhiên, đề nghị các công ty dầu khí nước ngoài dự
thầu quyền khai thác 9 lô dầu khí nằm ngay sát bờ biển Việt Nam. Và gần như
cũng đúng vào lúc đó, Trung Quốc tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
và bãi Macclesfield (mà theo Trung Quốc là bao gồm cả bãi cạn Scarborough mà họ
tranh giành với Philippines gần đây) bây giờ là một đơn vị hành chính của Trung
Quốc, gọi chung là thành phố Tam Sa. Tỉnh Hải Nam đã xúc tiến việc này từ nhiều
năm nay; nhưng cho đến gần đây, chính quyền trung ương vẫn từ chối cấp phép.
Gần đây cũng đã xảy ra hai sự kiện nhập
nhằng: Trung Quốc tuyên bố rằng tàu chiến của Cơ quan Hải giám Trung Quốc sẽ
thường xuyên tuần tra quần đảo Trường Sa, và họ triển khai một con tàu “công
xưởng” nặng 32.000 tấn để phục vụ cho hàng trăm tàu cá nhỏ, một việc mà các
chuyên gia Singapore cho là sẽ làm cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên của Biển
Đông.[i]
Đáp lại, đòn phản công của Hà Nội là việc
bỏ phiếu của Quốc hội thông qua một đạo luật quản lý biên giới biển của Việt
Nam nhưng không nêu cụ thể biên giới đó ở đâu – dường như là một hành động
tương đối vửa phải.
Chính quyền Việt Nam và Philippines muốn
làm nhiều hơn nữa để kềm chế đà tiến xuống phía nam của hải quân Trung Quốc,
nhưng tổng tham mưu của hai nước nói trên, khác với những người dân trên đường
phố, hay đa số thành viên của Quốc Hội hai nước, đều biết rằng lực lượng vũ
trang của họ sẽ rất khó đối phó với quân lực Trung Quốc.
Sau nhiều năm xao lãng, lực lượng vũ trang
Philippines gần như chỉ còn khả năng duy trì trật tự trong nước, chứ đừng nói
tới việc ngăn chặn sự xâm lăng của Trung Quốc. Hải quân, không quân và phòng
không của Việt Nam đã đạt nhiều bước tiến trong thập niên qua và chắc chắn có
thể tự vệ trong một cuộc xung đột với lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc
cùng các tàu bảo hộ ngư nghiệp của nước này. Tuy nhiên, một vụ đụng độ có vũ
trang sẽ tạo cớ cho Hải quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ra tay
can thiệp để – như những kẻ mị dân Trung Quốc thường xuyên đề xướng – “dạy cho
Việt Nam một bài học”.
Để tái lập thế cân bằng ở một mức độ nào
đó, Manila và Hà Nội đã tìm kiếm viện trợ về quân sự ở bất kỳ nơi nào có thể.
Tổng thống Aquino đặc biệt trông cậy vào sự sẵn sàng của Mỹ trong việc tăng
cường hợp tác song phương, theo Hiệp định Phòng vệ Chung được ký giữa hai nước
từ 60 năm nay. Việt Nam thì mở rộng mạng lưới quan hệ hơn, mua vũ khí của Nga,
Pháp, Canada và Hà Lan, tranh thủ sự ủng hộ của Ấn Độ trong hoạt động huấn
luyện tác chiến bằng tàu ngầm, và xúc tiến quan hệ hợp tác với quân đội của các
nước Hoa Kỳ, Úc và Nhật Bản.
Washington vui mừng ủng hộ các cuộc tập
trận nhằm xây dựng năng lực cho các bằng hữu Đông Nam Á để tạo khả năng đánh
chặn đáng tin cậy. Tuy nhiên, một cách nhất quán, phía Mỹ luôn gạt bỏ các đề
xuất về việc Hạm đội Thái Bình Dương cần đóng một vai trò giám sát chủ động
trong khu vực Biển Đông. Trong hoàn cảnh hiện nay, Hoa Kỳ cũng không đồng ý bán
vũ khí sát thương cho Việt Nam. Quốc hội Mỹ – vốn dĩ lo ngại có thêm một vướng
víu quân sự ở xa, không biết bao giờ mới kết thúc. Do đó, Quốc hội Mỹ sẽ đòi
hỏi chính quyền Cộng sản phải có sự tiết chế rõ ràng trong cách hành xử với
những nhân vật chỉ trích họ ở trong nước, một đòi hỏi có điều kiện mà đơn giản
là Hà Nội sẽ không nhượng bộ.
Chỉ còn đường ngoại giao hay sao? Sau
Campuchia, sẽ đến lượt Brunei là nước tiếp theo giữ ghế chủ tịch ASEAN, rồi đến
Myanmar vào năm 2014 và Lào vào năm 2015. Tóm lại, tuần qua, hy vọng đã thu hẹp
nhiều về việc tổ chức ASEAN có thể đối phó với nguy cơ xung đột trên Biển Đông
và có lẽ còn nhằm nuôi dưỡng các giải pháp thực sự cho các bên thù địch.
Một giải pháp “đi đường vòng” sẽ là, hình
thành một tập hợp con của ASEAN – gồm 5-6 nước thật sự lo ngại về nguy cơ Biển
Đông bị sáp nhập vào nước Trung Hoa rộng lớn – để họ đưa ra các sáng kiến riêng
của họ. Tình huống lý tưởng là, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei, được
Indonesia và Singapore khuyến khích, sẽ lựa chọn ra những gì họ có yêu sách đòi
hỏi và những gì họ không có yêu sách, như được khuyến cáo trong hai bài viết
gần đây của nhà phân tích độc lập là Greg Poling và Dương Danh Huy.[ii]
Hai nhà phân tích cho rằng, sẽ không nước
nào trong số các nước có yêu sách phải từ bỏ yêu sách của mình vào thời điểm
này cả. Nhưng, thông qua việc làm rõ cơ sở pháp lý cho các yêu sách của họ về
biển đảo, và phân biệt chúng với những tranh chấp phức tạp hơn (nhưng về mặt
địa lý thì lại nhỏ hơn nhiều, căn cứ vào yêu sách đối với các cấu trúc địa lý
trên đất liền), họ sẽ có khả năng tạo thành một mặt trận đoàn kết trước Trung
Quốc vào thời điểm quyết định này: Cơ sở duy nhất sẽ cho phép xử lý các yêu
sách biển đảo trên Biển Đông là luật quốc tế.
Quá trình vừa nêu trên sẽ thách thức năng
lực chính trị của cả sáu nước ASEAN vừa đề cập, đặc biệt là Việt Nam và
Malaysia. Việt Nam đã khẳng định rằng họ sẵn sàng dựa vào luật quốc tế để giải
quyết yêu sách chủ quyền, nhưng làm như vậy có thể gây phản ứng tiêu cực ở một
số công dân – những người mà, tương tự với các đối tượng bên Trung Quốc, luôn
giữ quan điểm mang tính bành trướng rằng đây là “biển lịch sử” của Việt Nam.
Đối với Malaysia, họ đơn giản chỉ cần đứng dậy và được tính đến. Cho đến nay,
Malaysia (và Brunei) dường như vẫn cho phép mình tưởng bở rằng Trung Quốc sẽ
thỏa mãn, một khi Bắc Kinh đã xơi no phần biển ngoài khơi Việt Nam và
Philippines!
Trung Quốc vẫn căn cứ vào những khẳng định
rằng thủy thủ và ngư dân của họ đã đi ngang qua “Biển Nam Trung Hoa” từ trong
quá khứ, và họ nghiễm nhiên coi lập luận đó, cùng sức mạnh hải quân ngày càng
gia tăng của mình, là đủ. Chừng nào yêu sách của những quốc gia ven biển khác
còn mơ hồ, thế bế tắc chiến lược vẫn còn tồn tại – tình huống này tạo điều kiện
lý tưởng cho Trung Quốc ngụy tạo thêm “dữ kiện thực tế” và đưa ra những thỏa
thuận song phương mà các nước có yêu sách khác sẽ phải chịu thiệt hại.
Ngược lại, nếu những nước ASEAN có lợi ích
liên quan nhiều nhất có thể xúc tiến một lập trường chung gắn chặt với các
nguyên tắc trong luật quốc tế, thì họ sẽ có một yêu sách mà những nước khác
thấy muốn ủng hộ hơn nhiều – một lần nữa, gương mặt đáng chú ý nhất trong những
nước khác đó là Mỹ.
Nguồn: Asia Times
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
[i]rsis.edu.sg/publications/Perspective/RSIS1132012.pdf
[ii] csis.org/publication/southeast-asia-corner-18th-and-k-streets-carpe-diem-time-end-strategic-ambiguity-south-c
(bài của Poling) và www.rsis.edu.sg/publications/Perspective/RSIS1232012.pdf
(bài của Dương Danh Huy).
No comments:
Post a Comment