Gửi hương hồn Cao
Xuân Huy và Nguyễn Mộng Giác
Hoàng
Khởi Phong
15/07/2012
Câu chuyện của tạp
chí Văn học khởi xướng tại Hoa
Kỳ đã bắt đầu diễn ra cách đây gần ba chục năm. Nhà văn Hoàng Khởi Phong cho
biết: Vì có quá nhiều sự kiện chồng chéo lên nhau, nên ông có thể nhớ không
chính xác về thời điểm, nhưng riêng về các sự kiện thì khó có thể quên, bởi đó
là một phần đời, là máu, thịt của những ai gầy dựng nên tạp chí này và duy trì
nó trong suốt mấy thập kỷ. Ở Việt Nam hàng chục năm trước đây, không ít người
là cộng tác viên hoặc được chọn in lại bài trên tờ tạp chí nổi tiếng mà nhà văn
Hoàng Khởi Phong có những dòng hồi tưởng và nhã ý dành cho BVN, trong đó có GS. Nguyễn Huệ Chi.
Bauxite
Việt Nam
--------------------------------------------
Khi
tôi viết những dòng chữ này, thì ở Nam California gia đình và thân hữu của nhà
văn Nguyễn Mộng Giác đang tiến hành những nghi thức cuối, tiễn anh về nơi an
nghỉ cuối cùng. Trước đây gần hai năm cũng tại địa điểm này, cũng những thân
hữu này, đã tiễn đưa nhà văn Cao Xuân Huy trong chuyến đi chót cùng của đời
anh. Nguyễn Mộng Giác là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút đầu tiên và Cao Xuân Huy là chủ
nhiệm kiêm chủ bút cuối cùng của tạp chí Văn Học, một nguyệt san văn
chương, xuất hiện ở hải ngoại từ năm 1985 cho tới 2008, khi Cao Xuân Huy lâm
vào căn bệnh hiểm nghèo và không thể cáng đáng nổi việc điều hành tờ báo. Nói
như thế có nghĩa là tờ Văn Học đã không còn hiện diện trong cõi đời này
vài năm, trước khi những người chủ trương quan trọng nhất của tờ báo vĩnh viễn
nằm xuống.
Để
viết về Văn Học, tôi phải
nhắc tới một tờ báo khác với một cái tên dài hơn là Văn Học Nghệ Thuật, và cũng phải nhắc tới căn nhà đầu tiên
tôi mua vào năm 1983, trên đường Dapplegrey, thành phố Garden Grove. Đó là một
căn nhà 4 phòng ngủ, và đàng sau có một cover patio rất rộng. Khi mua căn nhà
này gia đình tôi chỉ có hai bố con tôi và hai người cháu trai. Tôi không thể
hình dung được nửa năm sau, vợ chồng con cái Cao Xuân Huy từ một thành phố ở
phía Bắc Cali dọn xuống miền Nam. Huy và tôi vốn là hai anh em họ “Hồng Bàng”,
đã biết nhau từ khi Huy học trung học, và ngay cả sau này khi đã vào quân đội,
Huy đã từng ăn dầm nằm dề ở nhà tôi. Năm 1971 ở Pleiku, Huy đi phù rể với nhiệm
vụ chụp hình cho đám cưới của tôi, nhưng rút cục tôi không có một tấm ảnh nào
trong ngày cưới. Chẳng những thế tôi còn mất cả chiếc máy ảnh đi mượn, bởi vì
anh còn mải uống rượu với những người bạn thân của anh và tôi từ Sài Gòn lên.
Do đó đầu năm 1984 khi anh dọn xuống Nam Cali, nhà tôi tất nhiên là nơi trú ngụ
ban đầu cho vợ chồng con cái anh. Chỉ vài tháng sau khi Cao Xuân Huy đổ bộ từ
phía Bắc xuống, tới phiên bố con Nguyễn Mộng Giác thiên đô từ Texas qua. Nguyễn
Mộng Giác và tôi vốn là bạn văn từ những năm đầu thập niên 70, nên khi anh dọn
qua Nam Cali, nhà tôi chính là nơi anh sẽ tạm trú trong lúc chân ướt chân ráo
mới đến. Rút cục căn nhà đó có một thời gần giống như một trại tị nạn, với số
người lớn nhỏ cả thảy 16 người, và được phân phối như sau: Hai bố con tôi một
phòng, bố con Nguyễn Mộng Giác một phòng, vợ chồng Cao Xuân Huy một phòng, hai
người cháu tôi một phòng. Còn tất cả những cậu con trai bị dồn hết vào trong
cái patio được làm thành một phòng ngủ tập thể. Trong thời gian này điều phiền
nhiễu nhất cho chúng tôi chính là chỗ đậu xe, bởi vì vỉa hè trước cửa nhà tôi
nhiều lắm chỉ có thể chứa được bốn chiếc xe, kể cả driveway, trong khi những
người trong nhà có tới bảy chiếc xe, đó là chưa kể tới khách khứa văn nghệ của
Giác và tôi, cùng với khách nhà binh của Cao Xuân Huy nườm nượp ra vào. Nhất là
những dịp cuối tuần, chúng tôi làm phiền hai bên hàng xóm hầu như suốt từ chiều
Thứ Sáu cho tới khuya Chủ Nhật. Thời gian này Cao Xuân Huy chưa chính thức
viết, tuy nhiên anh đang ngấm ngầm viết những dòng đầu của cuốn hồi ký làm nên
tên tuổi nhà văn Cao Xuân Huy sau này, đó là cuốn Tháng Ba Gãy Súng
Tháng
4 năm 1985, nhà văn Nguyễn Bá Trạc từ San Jose xuống thăm chúng tôi, anh mang
xuống miền Nam một không khí sôi nổi như con người anh. Trong lúc ngồi quán cà
phê với Nguyễn Mộng Giác và tôi, cùng quan sát cộng đồng biểu tình, Nguyễn Bá
Trạc nói với chúng tôi có lẽ bọn mình nên làm một cái gì đó, một tờ báo chẳng
hạn. Nguyễn Bá Trạc đã từng một mình chủ trương tờ Thời Luận ở trên San Jose, đây là tờ báo sớm nhất trong vùng
Bắc Cali từ năm 79, nhưng không thể trụ nổi vì thời gian đó việc buôn bán của
người Việt trên San Jose chưa mấy phát đạt, mà tờ Thời Luận là một tờ
báo tựa vào quảng cáo nên không thể tồn tại. Do đó tôi trả lời Nguyễn Bá Trạc
là tôi không mặn vụ làm báo quảng cáo. Tối đó tại nhà tôi ngoài các gia chủ
Nguyễn Mộng Giác, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong còn có thêm Nguyễn Bá Trạc
cùng hai thân hữu nữa, chúng tôi bàn thô về một tờ báo văn học thuần túy.
Sau
khi Nguyễn Bá Trạc quay trở lại San Jose, Nguyễn Mộng Giác và tôi càng ngày
càng nung nấu ý nghĩ về tờ báo thuần túy văn học này. Trước đó hai năm tờ báo
văn chương thuần túy là tờ Văn Học Nghệ Thuật do hai nhà văn Võ Phiến và
Lê Tất Điều chủ trương sống lây lất chưa đầy mười số thì phải đình bản, và bấy
giờ trên thị trường chữ nghĩa của người Việt hải ngoại còn duy nhất một tờ Văn, do nhà văn Mai Thảo chủ
trương. Lần họp thứ hai cũng ở nhà tôi, có nhiều anh em văn nghệ hơn, nhưng tựu
trung có hai ý kiến: Một là tìm cách quy tụ hết tất cả những cây viết thành
danh, bày hàng tất cả những người hiện đang sống bên ngoài đất nước trên trang
bìa tờ báo. Ý kiến thứ hai dường như thiểu số tuyệt đối, vì chỉ có mình tôi cho
là không cần các tên tuổi lớn, chỉ cần trong vài số đầu chứng tỏ cho độc giả
thấy đây là một tờ báo văn học thuần túy. Ban đầu với những cây viết mới có thể
không gây được tiếng vang, nhưng đó là tờ báo, mà những người chủ trương trân
trọng từng bài thơ, từng mẩu chuyện. Tôi chủ trương tin vào chính mình, viết
cho tới không sớm thì muộn độc giả cũng mở vòng tay đón nhận tờ báo.
Từ trái sang phải:
Phan Nhật Nam, Khánh Trường, Hoàng Chính Nghĩa, Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân
Huy.
Rút
cục tờ báo xuất hiện với sự tham dự của khá nhiều cây bút đã thành danh ở trong
nước. Với sự hiện diện của nhà văn Võ Phiến ở vị trí Chủ nhiệm, tờ báo là sự
tiếp nối, hay khác đi là sự tục bản tờ Văn Học Nghệ Thuật, và hầu như
tất cả mọi thành viên đều cho là với cái tên này, ít nhất tờ báo không mang vẻ
cạnh tranh với tờ Văn của nhà văn Mai Thảo. Vị trí Chủ bút do nhà văn Lê
Tất Điều đảm nhiệm, và Nguyễn Mộng Giác là Tổng thư ký. Đó là bộ ba thực sự
điều hành tờ báo, phần tôi là Chủ nhiệm trên phương diện pháp lý, nghĩa là có
bổn phận hàng năm khai thuế. Ngoài ra nhà văn Nhật Tiến tuy không giữ một chức
vụ nào, nhưng nhà anh là nơi mỗi tháng nhóm chủ trương họp một lần, ăn với nhau
một bữa cơm, nhận báo mới, và đồng thời chọn chủ đề, phân chia bài vở cho số
sắp tới. Sở dĩ chọn nhà anh Nhật Tiến vì ông Chủ nhiệm Võ Phiến ở hướng Bắc tại
Los Angeles, chủ bút Lê Tất Điều ở phía Nam tại San Diego, nhà tôi thì đang là
trại tị nạn, và nhất là chị Phương Khanh với các cháu gái con anh chị Nhật Tiến
sẽ đãi nhóm chủ trương một bữa ăn đích đáng.
Chỉ
sau vài số báo, Văn Học Nghệ Thuật được các cây bút hải ngoại tới tấp
gửi bài tham dự, cũng như sự trợ giúp tài chánh của những người coi văn chương
như là món ăn tinh thần. Khoa học gia Trương Vũ, là một thí dụ điển hình.
Trương Vũ là người của khoa học, ông làm việc tại NASA, nhưng đã có những đóng
góp đáng kể cho văn học Việt Nam ở hải ngoại. Năm 1995, hai mươi năm sau khi
chiến tranh tàn, Nhà xuất bản Cub Stone ở tiểu bang Massasschusset dự định ấn
hành một tuyển tập văn học về hậu chiến Việt Nam, quy tụ nhà văn của Việt Nam ở
trong nước và nhà văn Mỹ. Chính nhờ sự đóng góp của Trương Vũ trong thành phần
chủ biên, khi tuyển tập The Other Side of Heaven ra đời, nó có thêm
tiếng nói của tám cây bút Việt Nam ở hải ngoại, cùng xuất hiện với mười hai cây
bút Việt Nam ở trong nước và mười tám cây bút Hoa Kỳ. Nói tóm lại sau khi chiến
tranh tàn được hai chục năm, đây là một tác phẩm quy tụ nhà văn của ba phe tham
chiến, đã từng tận lực bắn giết nhau ngoài mặt trận. Không riêng gì Văn Học
nhận được sự trợ giúp hết lòng của Trương Vũ, sau này khi tờ Hợp Lưu ra
đời, anh cũng là một người lúc nào cũng mở hầu bao cứu cấp, mỗi khi hai tờ Văn
Học và Hợp Lưu gặp phải những cơn khủng hoảng tài chánh.
Tròn
một tuổi do những hoàn cảnh cá nhân, lại xa xôi cách trở, nhà văn Võ Phiến và
Lê Tất Điều rút ra khỏi ban chủ biên, tờ Văn Học Nghệ Thuật đối diện với
lần lột xác đầu tiên, trở về với cái tên dự định ban đầu là Văn Học.
Trong lần cải tổ này Nguyễn Mộng Giác ở vị trí Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, tôi đảm
nhiệm phần vụ cũ của Nguyễn Mộng Giác, nghĩa là Tổng thư ký cho tờ báo. Về công
việc thì Nguyễn Mộng Giác vẫn gánh vác nhiều hơn cả, vì anh đang “viết thuê”
cho một tờ báo chuyên về quảng cáo, nên có nhiều điều kiện lo cho tờ Văn Học
hơn tôi. Thời gian này tôi vẫn là một người làm thợ tiện ca ba, nghĩa là đi làm
từ 11 giờ đêm tới 6 giờ sáng, mỗi khi về tới nhà tôi lăn quay ra ngủ tới một,
hai giờ chiều mới trở dậy, đi lấy thư với hy vọng có thêm nhiều độc giả dài
hạn, có thêm tiền để lo trả nợ nhà in, mua thêm tem để gửi báo. Và rồi mỗi
tháng một, đôi lần tôi và Cao Xuân Huy ôm một đống báo ra Bưu Điện. Tôi cũng có
nhiệm vụ trả lời thư tín của thân hữu và bạn đọc. Riêng về Cao Xuân Huy, anh
không còn là một người lính thuần túy như trước kia, lòng tiếc thương đồng đội
cũ, càng ngày càng dìm anh lún sâu vào con đường chữ nghĩa. Đêm đêm khi tôi lên
đường kiếm ăn trong xưởng tiện, thì ánh đèn trong phòng riêng của vợ chồng, con
cái anh vẫn còn le lói, và tôi biết anh đang ráo riết hoàn thành những trang
cuối của cuốn hồi ký viết về sự sụp đổ của miền Trung và nỗi uất hận của những
người lính một đời thiện chiến, giờ đây ngơ ngác trước những mệnh lệnh chết
người.
Hàng
ngồi từ trái sang: Nguyên Sa, Mai Thảo và Võ Phiến.
Hàng đứng: Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Ngọc Yến và Hoàng Khởi Phong.
Hàng đứng: Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Ngọc Yến và Hoàng Khởi Phong.
Năm
1987, để sửa soạn đón gia đình qua đoàn tụ, Nguyễn Mộng Giác thuê một căn chung
cư ở Tustin. Anh cũng đón ông Võ Thắng Tiết từ Alaska về chung sống. Tưởng cũng
nên nhắc lại ông Võ Thắng Tiết chính là tu sĩ Từ Mẫn, Giám đốc Nhà xuất bản Lá
Bối trước kia. Sau năm 75 dù không muốn ông cũng phải trở về đời sống bình
thường. Năm 1980 ông vượt biên cùng chuyến tàu với gia đình nhà văn Nhật Tiến.
Khi đến Mỹ ông chọn nghề làm cua ở Alaska trong ba, bốn năm liền, rồi tích lũy
vốn liếng trở về Cali dựng Nhà xuất bản Văn Nghệ. Giờ đây sau hơn ba chục năm
sống rải rác khắp năm châu, giả như người Việt có một dòng văn học Việt Nam ở
hải ngoại, thì phải nói ông Võ Thắng Tiết là một trong những người có công đầu.
Bởi lẽ nếu không có bệ phóng của Nhà xuất bản Văn Nghệ, thì có thể giờ đây rất
nhiều tác giả ở hải ngoại vẫn còn chìm trong bóng tối. Gần hai chục năm sau khi
hoàn cảnh buộc phải ngưng hoạt động, Nhà xuất bản Văn Nghệ còn tồn lại một kho
sách, với mấy trăm đầu sách văn chương và biên khảo. Ông Võ Thắng Tiết cũng
xuất bản những cuốn sách vì nhu cầu giải trí, thị hiếu của độc giả, và đồng
thời cũng là một nguồn thu không nhỏ để nuôi sống những cuốn sách văn học.
Nhưng những đầu sách này được in dưới nhãn của Nhà xuất bản Đồng Văn, không
phải Văn Nghệ.
Năm
1988 vợ và con gái út của Nguyễn Mộng Giác được đoàn tụ, để được toàn tâm toàn
trí lo cho gia đình sum họp, Nguyễn Mộng Giác có ý định rút lui ra khỏi ban chủ
biên. Đây là một biến cố lớn của tờ Văn Học, đến độ Trương Vũ từ DC phải
đích thân bay về Cali, với ý định thuyết phục Nguyễn Mộng Giác vẫn để tên trong
ban chủ biên, còn công việc điều hành thật sự do Cao Xuân Huy và tôi sẽ làm thay.
Nhưng anh Giác quyết liệt rút ra, và đề nghị tôi thay thế cho anh Giác. Ban đầu
tôi định từ chối, vì nghĩ mình không đủ uy tín. Mặc dù trước đó không lâu cuốn
hồi ký Ngày N+… của tôi đã gây được một tiếng vang đáng kể trong giới
cầm bút, và trước đó một năm cuốn hồi ký Tháng Ba gãy súng của Cao Xuân
Huy được coi như là một hiện tượng của văn học hải ngoại. Ngoài ra tôi chưa kể
tới những trói buộc về sinh kế cho bản thân tôi cùng con và hai người cháu đang
ăn học ở Mỹ, đồng thời vẫn phải yểm trợ tài chánh cho toàn bộ gia đình ở quê
nhà. Thời điểm đó sau khi đổi tên và thành phần chủ biên Văn Học đã đứng
vững được ba năm, với gần bốn chục số báo và ý kiến của Cao Xuân Huy cũng như
Trương Vũ là phải duy trì tờ Văn Học bằng mọi giá, mà nhân sự thì chỉ
còn hai người có thể cáng đáng là Cao Xuân Huy và tôi. Cuối năm 1988, nếu tôi
nhớ không lầm thì Văn Học số 38, thành phần chủ biên giờ đây sẽ gồm:
Hoàng Khởi Phong Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Cao Xuân Huy Tổng thư ký, họa sĩ Khánh
Trường lo phần trình bày. Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ và Nhật Tiến trong thành
phần cố vấn.
Nhìn
chung thì ba người trong ban chủ biên giờ đây đều là cựu quân nhân của QLVNCH,
mà trong đó Cao Xuân Huy là sĩ quan TQLC, Khánh Trường thuộc binh chủng Nhảy Dù
và đã từng ở trong Đại đội của Phan Nhật Nam là ĐĐT, và tất nhiên cả ba người “lính
tẩy” chúng tôi không hề có ý định làm một tờ báo mà nội dung cũng như hình
thức, quá nghiêm chỉnh và quý phái như hai vị tiền nhiệm vốn là nhà giáo. Ngay
trong số đầu trách nhiệm, tôi cho đăng tải truyện ngắn Pháo đài trên sông
Zyangty của nhà văn Trần Vũ, một cây bút mới thành danh cư ngụ ở Pháp. Nội
dung truyện ngắn này quả là một trái bom, vì nó chứa đựng những pha làm tình
của hai chị em ruột, sau khi vượt biên mà người chị vì muốn cứu mạng người em,
đã bị dày vò, vùi dập bởi hàng chục tên hải tặc. Số kế đó Văn Học đăng
tải truyện ngắn Có yêu em không của Khánh Trường. Nội dung của truyện
ngắn này còn bạo liệt hơn cả truyện Trần Vũ, khi một người lính mang xác đồng
đội về nhà, trong lúc gia đình lo tang lễ và quàn xác người chết ở dưới, thì
trên gác xép người lính đã làm tình với em gái của người quá cố. Sau hai truyện
ngắn này dư luận của giới văn nghệ rộn hẳn lên. Bản thân tôi khi chọn đăng tải
hai truyện ngắn này không phải vì mối quan hệ đặc biệt với hai tác giả, mà vì
đó là hai truyện ngắn hay, và tôi vốn không coi tính dục là một cấm kỵ trong
văn chương.
Sau
hai truyện ngắn này Nguyễn Mộng Giác mời tôi và Cao Xuân Huy đi uống cà phê,
anh cũng cảnh báo chúng tôi là muốn thay đổi nội dung và hình thức tờ Văn
Học thì nên từ từ, không thể gấp gáp quá e rằng sẽ gặp những phản ứng ngược
từ chính những nhà văn đang cộng tác. Trong lần gặp gỡ này tôi đã giấu Nguyễn
Mộng Giác vài lá thư của các văn hữu kết án nặng nề nhóm chủ biên mới. Trong
phần thư tín với các văn hữu, tôi đã trả lời thẳng thừng về việc không viết tắt
những chữ vốn được coi là kỵ húy trong văn chương Việt Nam. Tôi nghĩ rằng văn
chương dù có ngôn ngữ riêng, nó cũng phải phần nào dung chứa ngôn ngữ đời
thường, vả lại người đọc khi đọc đến những chữ viết tắt đó, ai cũng biết nghĩa
đích thực của nó, thì không vì một lý do nào phải viết tắt. Tất nhiên khi quyết
định đăng tải những đoạn văn này, tôi cũng đã cố gọt bớt những chữ quá thô tục,
nhưng dứt khoát Văn Học không viết tắt bất cứ một chữ nào.
Để
không khí nhẹ đi phần nào, hai số kế tiếp Văn Học giới thiệu những cây
bút trẻ mới xuất hiện trên vòm trời chữ nghĩa và đang sinh sống ở Pháp và ở Úc,
tiếc là ở Canada trong thời điểm đó không quy tụ nổi các cây bút trẻ xuất hiện
đủ cho một số báo, nên không thể làm một số riêng biệt cho vùng đất này.
Cũng
trong thời gian này ở trong nước, ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố mở cửa về kinh
tế và cởi trói cho văn nghệ, đã làm thay đổi bộ mặt thiếu sinh động của văn học
trong nước, chuyên về minh họa. Chỉ trong một thời gian ngắn văn học trong nước
trúng mùa bội thu, trên khắp các cánh đồng. Ở bất cứ bộ môn nào cũng có những
thành tựu với các tác phẩm không còn viết theo chiều hướng cũ. Đã có những tác
giả ở trong nước quay lưng lại với loại văn chương minh họa đã ngự trị suốt nửa
thế kỷ trên những tờ báo chuyên về văn học ở trong nước. Văn Học là tờ
báo đầu tiên ở hải ngoại đã lên tiếng cổ võ cho những tác phẩm này. Từ số 45
cho tới số 48, Văn Học đăng tải rải rác một số truyện ngắn và thơ được
sáng tác trong buổi phôi thai, ngay khi lời tuyên bố của ông Nguyễn Văn Linh
vừa ráo miệng, để sửa soạn cho số 49 và 50 là hai số chuyên đề về “văn chương
phản kháng” ở trong nước. Hai số báo đó vô hình trung là mục tiêu đánh phá Văn
Học, của những tờ báo coi hiện tượng này chỉ là phản kháng giả, hay là một
đòn đánh phủ đầu của Nhà nước Việt Nam đối với giới cầm bút cả trong cũng như
ngoài nước. Tuy Văn Học không chính thức trả lời những bài viết đầy ngôn
ngữ quy chụp, nhưng một số tác giả khác không phải trong nhóm chủ trương đã gửi
về Văn Học những bài viết giá trị nhận định về hiện tượng này, như là
một hình thức gián tiếp trả lời cho những công kích đầy ác ý. Và nếu đúng là
chế độ ra đòn như thế, thì quả thật những người cầm bút ở hải ngoại đã trúng
đòn, vì cuộc tranh cãi ban đầu ngôn ngữ còn chừng mực, nhưng càng về sau càng
tệ hại, đến độ giữa một số anh em cầm bút, đã có thời giao tình với nhau, sau
hai số báo này đã không thể hàn gắn được, không thể ngồi chung với nhau trong
bất cứ một cuốn sách nào.
Ngoài
Văn Học là tạp chí văn chương chính thức công nhận hiện tượng văn chương
phản kháng ở trong nước, một số các cây bút độc lập ở rải rác khắp nơi quy tụ
lại thành lập Nhà xuất bản Lê Trần, mà tác phẩm duy nhất: Trăm hoa vẫn nở
trên quê hương đã quy tụ được 27 nhà văn ở hải ngoại, viết về hiện tượng
này, và đồng thời trích đăng tác phẩm của 69 nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia và
kịch bản điện ảnh mà tác phẩm của họ gây xôn xao trong nước trong giai đoạn đầu
cởi trói cho văn nghệ này. Hầu như tất cả các cây bút chủ chốt của tờ Văn
Học đều đóng góp cho cuốn sách này. Nói cho cùng đây là những bài còn dư
lại của hai số chuyên đề 49 và 50, nhưng đó cũng là một hình thức trả lời cho
những người đã chỉ trích Văn Học hàng năm trời ròng rã, với những luận
điệu quy chụp, thậm chí còn vu khống.
Năm
1990, tôi bị thất nghiệp. Ở đây tôi xin nói rõ: về tài chánh, tờ Văn Học,
hay bất cứ một tờ báo thuần túy văn chương nào, cũng lỗ. Ngoại trừ tờ Văn
của Mai Thảo, được một nhà in hào phóng in báo với giá tượng trưng chỉ bằng nửa
giá in thị trường, và những người hâm mộ nhà văn Mai Thảo ở rải rác khắp nơi
hết lòng ủng hộ. Tất cả những may mắn đó giúp cho Mai Thảo sống khá ung dung
với hai nguồn tài chánh chính là tiền già và tiền bán báo. Tờ Văn Học
tuy không lời, nhưng với 700 độc giả dài hạn, lúc nào nó cũng đủ tiền in, tiền
tem. Phần lời là báo bán lẻ tại những tiệm sách rải rác trên toàn nước Mỹ và
Canada. Nhưng có nhiều tiệm sách không chịu thanh toán nếu như tờ báo không có
người đến kiểm kê số báo tiêu thụ hàng tháng. Tại Texas có một tiệm sách suốt
hai năm trời không chịu thanh toán tiền báo và sách do Văn Học phát
hành, cho tới khi ông chủ bán tiệm cho người khác, thì số tiền báo đã bán được
khoảng hai ngàn đô la coi như bị xù. Ở đây Văn Học lúc nào cũng mang ơn
chị Thụy Khuê, người đại diện cho Văn Học ở Pháp và Âu Châu, thỉnh
thoảng chị gửi cho một khoản tiền, mà tôi nghĩ cho dù có bán hết báo mà chị
nhận phát hành, cũng không thể được con số đó. Dù gì chăng nữa thì tờ báo coi
như hòa, nhưng thỉnh thoảng có những khoản chi bất thường ngoài vụ in ấn, thí
dụ một bạn văn thường xuyên gửi bài vở cộng tác, bỗng một hôm đến chơi với anh
em vài ngày, thì khoản đãi đằng cơm tây, rượu chát trong thời gian đó phải móc
từ túi ông chủ nhiệm.
Tôi
đã làm thợ tiện được hơn mười năm, việc thất nghiệp ở Mỹ là chuyện bình thường,
nếu chịu khó tìm tòi thế nào cũng có việc lại, nhưng nhân dịp này tôi muốn thay
đổi không khí cho bản thân mình, muốn bỏ nghề và thử tìm một con đường nào gần
hơn với việc viết lách, nên tôi dồn hết tiền bạc mà sở cũ trả cho tôi đâu khoảng
mười ngàn, lên San Jose bỏ thêm vốn vào nhà in Lam Sơn của một ông bạn đã hoạt
động được mười năm, tưởng chừng sẽ có lúc chính tôi sẽ đứng ra in tờ Văn Học.
Vì quyết định dời lên phía Bắc của tôi, Văn Học lại một phen sắp xếp lại
đội hình. Trương Vũ lại một phen từ thủ đô bay về, lần này Trịnh Y Thư là Chủ
nhiệm kiêm Chủ bút, Cao Xuân Huy vẫn là Tổng thư ký. Trịnh Y Thư là một khuôn
mặt mới của Văn Học. Anh đang du học ở Mỹ thì xảy ra vụ 75, anh có bằng
MA và đang làm việc cho một công ty lớn, với số lương hậu hĩnh hơn trăm ngàn đô
la một năm. Không phải vì Trịnh Y Thư khá giả mà anh bị anh em dồn anh vào chỗ
phải chi tiền. Trịnh Y Thư là một người dịch rất hay, anh là một trong những
người dịch Milan Kundera đầu tiên, và Đời nhẹ khôn kham là một bản dịch
cực kỳ hay cuốn tiểu thuyết của nhà văn gốc Tiệp này. Thời gian này vì ở xa,
tôi không có điều kiện để quan sát kỹ những thăng trầm của tờ Văn Học.
Việc
làm tiệm in của tôi rút cục không khá, năm 1991 tôi một mình băng qua sa mạc
Mojavie để tiến sang Texas, tìm một nơi lập nghiệp mới. Trong một năm trời tôi
di chuyển qua đủ bốn thành phố lớn nhất của tiểu bang này là Houston, Dallas,
San Antonio và Austin, làm đủ các nghề vớ vẩn. Khi thì đứng bán ở cây xăng, khi
thì đứng bán cho các tiệm tạp hóa Stop and Go hay tiệm Seven – Eleven. Có lúc
lại làm một loại việc khá giống như bốc vác cho một hãng sản xuất phụ kiện điện
tử. Năm 1992 khi tôi quay trở lại Nam Cali thì mới biết Văn Học lại một
lần nữa sắp xếp lại đội hình. Lần này nhà văn Nguyễn Mộng Giác quay trở lại vị
trí Chủ nhiệm, Trịnh Y Thư là Chủ bút, Cao Xuân Huy không thay đổi. Một năm sau
tôi chính thức đi làm báo và phụ trách trang “Văn Học Ngệ Thuật” cho tờ nhật
báo Người Việt, mà lẽ ra tôi đã làm một nhân viên của tờ báo này từ số
đầu tiên ra đời từ năm 1978. Tôi nhận chức biên tập viên cho tờ báo này, với
mục đích có nhiều thời gian để bắt đầu viết bộ trường thiên Người trăm năm
cũ. Tờ Văn Học vẫn hàng tháng có một bữa cơm chung, để các người chủ
trương nhận báo mới, hàn huyên với những bạn văn từ khắp nơi về thăm Nam Cali.
Bữa cơm chung này trước kia thường được tổ chức ở nhà Nhật Tiến, giờ đây nó
được tổ chức tại nhà Nguyễn Mộng Giác. Đó là căn nhà anh Giác đã mua và ở cho
đến khi qua đời.
Đầu
thế kỷ XXI, khi internet phát triển cực độ, các trang web ra đời. Các cây viết
trẻ đầy sung mãn và am hiểu tường tận kỹ năng điện toán, đã thiết lập hàng chục
trang web chuyên về văn học. Đồng thời lứa độc giả văn chương của người Việt ở
hải ngoại lớp thì qua đời, lớp thì làm biếng vì tuổi tác, đã khiến cho các tờ
báo chuyên về văn học càng ngày càng tiến gần đến việc đình bản các tờ báo in.
Năm
2003, một buổi trưa Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy đến chỗ tôi làm việc. Anh
Giác có ý định cho tờ Văn Học đình bản, nên bàn với Cao Xuân Huy và tôi.
Tôi chưa có ý kiến gì thì Cao Xuân Huy đã khẳng khái đứng ra nhận trách nhiệm
chăm nom cho tờ Văn Học. Và anh đã chăm nom cho nó cho tới khi anh qua
đời. Tất nhiên trong giai đoạn khó khăn này, lại chỉ có một mình xốc vác cho tờ
báo, nên Văn Học trước tiên để tiết kiệm tiền in và tiền tem, thay vì
phát hành mỗi tháng một số 120 trang, thì giờ đây hai tháng phát hành một số
dày tồi thiểu là 200 trang và có khi lên tới 250 trang. Trong cơn ngắc ngoải
của tờ báo, vẫn là Trương Vũ đã hết lòng khích lệ, yểm trợ cho Cao Xuân Huy. Số
Văn Học cuối cùng sau rất nhiều lần trì hoãn đã ra đời vào cuối năm
2008. Thế có nghĩa là một mình Cao Xuân Huy xốc vác tờ Văn Học trong
suốt bốn, năm năm sau cùng.
Mặc
dù không ở Mỹ lúc Cao Xuân Huy qua đời, song tôi biết khá tường tận diễn tiến căn
bệnh của Cao Xuân Huy. Huy phát giác ra mình có một cái u trong mắt một cách
tình cờ, khi đang đánh mà chược với tôi vào năm 2007. Đang xoa bài, đột nhiên
anh dụi mắt, rồi lấy tay che đi một con mắt vài lần, rồi quay qua nói với tôi:
“Sao kỳ quá, con mắt phải của em chỉ nhìn thấy từ ngực bác trở xuống”. Hôm sau
Huy đi khám mắt, hai ông Bác sĩ Việt cho hai định bệnh khác nhau, một ông bảo
là nấm, một ông bảo là có u nhưng không biết lành hay dữ. Nguyễn Thành Quan là
bạn thân của Huy và tôi từ hồi nhỏ, và đã từng là sĩ quan trợ y của QLVNCH thấy
vậy chen vào: “Ngày mai mày đi khám lại ở UCLA Medical Center cho chắc ăn”. Hai
ngày sau Huy cho biết các Bác sĩ của UCLA xác nhận đó là u độc, và ở đây sẽ
dùng xạ trị để chữa. Tính Huy ít nói, trong hai tuần chờ đợi đi điều trị anh
vẫn đến xoa mà chược tại nhà tôi, và không bao giờ có vẻ mặt tư lự hay lo âu.
Có điều anh giấu tất cả mọi người là căn bệnh của anh là một căn bệnh hiếm,
hàng ngàn người bị ung thư mới có một người bị ung thư gần mắt, và quan trọng
hơn hết là nếu may mắn xạ trị có thể khỏi luôn, nhưng nếu không chữa được tuyệt
nọc thì nó có thể chạy thẳng lên óc, hay xuống gan.
Xạ
trị xong vài ngày, anh lại có mặt tại nhà tôi trong những canh mà chược. Cứ như
vậy trong hơn hai năm liền một tuần hai, ba canh mà chược. Các bạn hữu của Huy
ai cũng nghĩ là sức khỏe của Cao Xuân Huy hoàn toàn bình phục. Bề gì thì cũng
là Trung oái TQLC, sá kể gì ba cái cancer vớ vẩn. Khoảng giữa năm 2010, sau khi
tái khám định kỳ Huy cho tôi biết anh bị di căn xuống gan. Khi nói về án tử của
mình, anh không hề đổi sắc, và vẫn một tuần hai cữ mà chược ở nhà tôi. Thời
gian này tôi đang sửa soạn làm đám cưới cho con trai tôi. Hai bố con tôi phải
về Việt Nam, vì cô vợ chưa cưới của cháu là người Việt. Đám cưới diễn ra ở Sài
Gòn vào ngày 31-10 năm 2010.
Huy
bắt đầu được hóa trị vào giữa tháng 7. Anh cho biết sẽ có hai đợt hóa trị, mỗi
đợt là 6 tuần, mỗi tuần một liều. Bọn chúng tôi nín thở nhìn Huy mỗi tuần đi
chữa bệnh. Trong sáu tuần của đợt hóa trị đầu, tôi không thấy Huy bị những phản
ứng xấu như rụng tóc, xuống cân… Và đặc biệt là anh có một tinh thần bằng thép,
sống hệt như những ngày trai trẻ, không hề một phút băn khoăn lo lắng về bệnh
trạng của mình. Sáu tuần lễ đầu qua đi, anh vẫn nhởn nhơ cười đùa với bằng hữu.
Anh vẫn tự mình lái xe lên nhà tôi chơi bài. Hết đợt đầu, anh được nghỉ một
tuần để sửa soạn hóa trị đợt hai, cũng sáu tuần lễ nhưng liều lượng gấp đôi.
Đầu tháng 10, tôi phải về Việt Nam, lúc đó Huy đã chịu hai liều của đợt hai,
ngoài vẻ mặt bình thản bên ngoài, tôi biết anh đau đớn dữ dội bên trong, vì có
lần tôi hỏi Huy về bệnh trạng trước khi tôi sẽ đi xa thì được anh cho biết:
“Người ta cứ nói đau xé gan xé ruột, không ăn thua gì vì em đang đau xé từng
thớ thịt, bất cứ một thớ thịt nào từ trên đầu xuống tới chân giống như bị một
bàn tay vô hình xé vụn ra”. Có một điều lạ là anh không bao giờ lộ vẻ đau đớn,
đặc biệt là trước mặt vợ và hai cô con gái, lúc nào anh cũng cười và còn bông
đùa cho không khí trong nhà bớt căng thẳng.
Ngày
15-10 năm 2010 tôi chia tay với Huy để về Việt Nam làm đám cưới cho con trai.
Trong một bữa cơm tiễn tôi đi tại nhà Nguyễn Kỳ Hùng, cả hai vợ chồng Huy cố
tham dự. Lúc này anh đã không lái được xe, khi chia tay ra về tôi thấy Huy lảo
đảo, nhưng anh gạt phắt tay của một người bạn có ý định dìu anh đi. Anh nói với
tôi giản dị: “Khi bác sang chắc là em không còn hiện diện trên cõi đời này.
Thôi chúc bạn mọi điều tốt lành”. Đáng lẽ tôi là người sẽ phải nói những lời
chúc tụng sức khỏe cho Cao Xuân Huy, thì anh đã chúc tôi trước, mà qua nội dung
những lời cuối của anh, những lời chúc tụng của tôi sẽ trở thành vô nghĩa. Sau
khi tôi đi khoảng mười ngày thì Huy mất. Anh sinh năm 1947, mất năm 2010 hưởng
thọ 63 tuổi.
Năm
2004 Nguyễn Mộng Giác đi mổ lần đầu vì ung thư. Từ đây sức khỏe của Nguyễn Mộng
Giác không còn như cũ. Năm 2008 anh về VN để chịu tang cùng an táng bà mẹ,
trước khi lên máy bay về lại Mỹ anh bị đột quỵ, rồi kế đó anh bị mổ lần thứ hai
vào năm 2009. Những năm cuối cùng của anh giống như là ngọn đèn sắp cạn dầu mà
còn bập bùng trong gió. Gần đây anh phải vào ở trong một nhà dưỡng lão, vì
không thể tự mình săn sóc cho mình, thành thử chị Diệu Chi có nhà mà hầu như
không ở, cứ lẩn quẩn nơi anh nằm bệnh. Mới đây trong dịp trở lại Mỹ vào tháng 4
và tháng 5 năm 2012, tôi hai lần điện thoại để ghé thăm, nhưng không một ai bốc
điện thoại trả lời. Tôi cũng lái xe đến bất ngờ hy vọng có ai ở nhà, để tôi
chuyển lời thăm hỏi, song không một ai có nhà. Sau cùng việc gì đến đã đến, Anh
qua đời vào ngày 3 tháng Bảy, năm 2012 tại nhà riêng, hưởng thọ 72 tuổi.
Sau
cùng xin thông báo với các độc giả của tờ Văn Học:
Địa
chỉ của tòa soạn hiện nay đã dời lên thiên đường từ năm 2008. Để tiện việc điều
hành tờ báo, mới đây hai vị chủ nhiệm đầu tiên và sau cùng cũng đã dời về đó.
Cho dù trong khi sống, nhà văn Nguyễn Mộng Giác và Cao Xuân Huy có thể làm phật
lòng một số người, vì quan điểm văn chương, hay chính trị. Nhưng nghĩ cho cùng,
sự khác biệt về quan điểm không bao giờ là một tội lỗi, càng không thể là một
tội ác. Nghĩ cho cùng một nhà giáo hết lòng với học trò của mình, một nhà văn
hết lòng với độc giả của mình, một người lính hết lòng với nhiệm vụ của mình sẽ
có một chỗ ở nơi thiên đường. Nếu như thiên đường là một nơi có thật.
Sài
Gòn 8 - 7 - 2012
H.
K. P.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment