TÔI
ĐÃ KHÓC, VÌ THẤY TỪNG CÓ MỘT MIỀN NAM ĐẸP ĐẼ ĐẾN KHÔNG NGỜ…
(Ghi chép của Tuấn Khanh)
Monday, August 09, 2021
http://phamthanhnghien.blogspot.com/2021/08/toi-khoc-vi-thay-tung-co-mot-mien-nam.html#more
Tuấn Khanh: Bài viết của chị tham gia cuộc thi viết Ký ức
30-4 do Sài Gòn Nhỏ tổ chức, là một trong những bài hiếm hoi ghi chép câu chuyện
về chuyện không phải của mình mà là của gia đình chồng, kể lại một câu chuyện
hoàn toàn khác với đời sống của một người lớn lên ở miền Bắc như chị…
Xin cho hỏi điều gì trong câu chuyện ấy khiến tác động,
làm cho chị quyết định ghi chép lại?
Phạm Thanh Nghiên: Tôi không chỉ muốn kể một
câu chuyện với vỏn vẹn 3.000 từ đâu. Chuyện gia đình chồng tôi, là một nỗi buồn,
niềm đau được bắt đầu từ ngày 30-4-1975, kéo dài suốt 46 năm và chưa biết bao
giờ mới kết thúc. Tôi muốn ghi chép lại không chỉ với tư cách là một thành
viên, là dâu con trong gia đình. Hơn thế, là trách nhiệm của một người cầm bút,
một người mang khát vọng đóng góp chút công sức nhỏ bé cho cuộc đổi thay của đất
nước. Với một cái nhìn hời hợt, tầm thường, chúng tôi có thể thở than khi nghĩ
đến nỗi bất hạnh gia đình mình gánh chịu. Nhưng tôi muốn cảm ơn cuộc đời đã cho
tôi cơ hội được nghe, được thấy để viết về một thân phận trong vô vàn thân phận
mang tên Việt Nam khác.
Nếu bây giờ chúng ta không ghi chép lại, một
cách nghiêm túc nhất, đầy đủ nhất, trung thực và quả cảm nhất thì thế hệ con
cháu chúng ta sau này sẽ không được biết sự thật về một giai đoạn lịch sử của đất
nước. Một dân tộc khó mà trưởng thành, thăng tiến nổi nếu không nhận diện được
gương mặt của chính mình qua một giai đoạn lịch sử trong quá khứ. Chế độ độc
tài tự thân nó là một xã hội bệnh hoạn, khiếm khuyết, mọi sự thật đều gây bất lợi
cho thế lực cầm quyền. Thế nên rất hiếm, hoặc chẳng thể có “sự thật lịch sử”
nào được công nhận hay ghi chép lại dưới thời này. Tôi e rằng ở Việt Nam vài chục
năm nay, chỉ có các “nhà viết sử”, các “nhà sáng tác lịch sử” chứ không có “nhà
chép sử”. Mà lịch sử thì phải được ghi chép lại một cách đầy đủ và trung thực,
nhà chép sử không thể bị ràng buộc, ảnh hưởng bởi một thế lực hay sức ép nào.
Với nhận định như thế thì tại sao, chúng ta
không tự ghi chép lại những gì đã diễn ra trong cuộc đời mình, và những điều
tai nghe mắt thấy qua các mảnh đời trong xã hội này. Những ký ức và thực tại được
ghi chép lại hôm nay, sẽ là lịch sử của ngày mai. Và như trong Lời mời gọi cùng
viết về “Ký ức 30-4, Sài Gòn Nhỏ có ghi “đừng ngần ngại sẻ chia, đừng giữ lại
những gì có thể chỉ là im lặng vô nghĩa trong đời mình”
*
Tuấn Khanh: Miền Nam trong câu chuyện của chồng chị kể lại cho chị cảm nhận khác biệt
như thế nào về miền Bắc, nơi chị lớn lên. Những cảm nhận đó là gì?
Phạm Thanh Nghiên: Lại phải lôi chuyện “lịch
sử” ra một tí, thứ “lịch sử” cần nằm trong dấu ngoặc kép. Tôi không có cơ may
được mở mắt sớm như nhiều người khác, nhất là các bạn trẻ hôm nay. Thế hệ 7X của
tôi vẫn tự hào với chiếc khăn quàng đỏ trên vai. Lớn lên một chút, tôi vẫn ngồi
dán mắt vào màn hình tivi mỗi dịp 30-4, mồng 3-2, ngày 19-5 hay cái dịp người
ta gọi là “cướp chính quyền” 19-8 hàng năm với một niềm xúc động vô cùng ngớ ngẩn.
Bố tôi thậm chí còn lập bàn thờ ông Hồ trong nhiều năm, cho đến khi ông gần qua
đời thì ông đập bỏ. Tôi từng yêu ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam, đấy là hệ quả
một nền (tạm gọi là) giáo dục, nhồi nhét mà sau này tôi mới nhận ra và cảm thấy
thật đáng ghê tởm. Mãi đến năm 29 tuổi, tôi mới nhìn ra sự thật. Tôi trải qua một
cú sốc tinh thần ghê gớm và có lần tôi đã mô tả nó là “vừa trải qua một cơn ốm
nặng”.
Rồi tôi sốc lại tinh thần, dứt khoát với mình,
dứt khoát với thời cuộc. Tôi thoát ly hẳn với những gì mình đã tin tưởng, để rồi
bị-được chính đối tượng mình từng tôn thờ gọi là “phản động”, là “thành phần
thù địch”. Tôi đã khóc rất nhiều, cả day dứt nữa, khi tìm hiểu về miền Nam giai
đoạn 1975 trở về trước. Có một miền Nam đẹp đẽ và tốt lành đến không ngờ trong
sự hình dung của tôi. Một sự tiếc nuối đến thắt lòng, cảm giác như mình bị mất
đi một thứ vô giá không bao giờ tìm lại được, dù tôi sinh tại miền Bắc, sau năm
1975, và chưa được sống ngày nào trên xứ sở đẹp đẽ ấy. Biến cố tháng 4-1975
không chỉ là vết thương trầm trọng cho người miền Nam. Nó là nỗi đau đớn, day dứt
cho cả một dân tộc, cho tôi và cho anh, cho tất cả những ai còn nhớ mình là người
Việt.
Tuấn Khanh: Nhưng miền Bắc cũng có những người dân có cuộc sống rất khốn khổ mà? Được
biết thêm cuộc sống của người miền Nam sau 1975 đã giúp cho chị sự phân biệt những
nỗi khốn khổ khác nhau ra sao?
Phạm Thanh Nghiên: Có một điều không biết có
nên gọi là “thú vị” hay không, khi tôi và chồng mình thường hay kể cho nhau
nghe những câu chuyện gia đình với cái đặc trưng rất trái ngược nhau của hai miền
đất nước. Tôi kể cho anh ấy nghe về gia đình tôi, về cuộc sống đói khổ của những
người hàng xóm, họ hàng để anh ấy hình dung ra bức tranh miền Bắc. Ngược lại,
tôi cũng được nghe về gia đình anh, về sự phồn thịnh của miền Nam một thời và sự
khốn khổ sau ngày bị “giải phóng”.
Khi vào Sài Gòn sinh sống, tôi có cơ hội gặp gỡ,
trò chuyện với nhiều người khác và nhận ra một điều đáng buồn, người Việt ở hai
miền Nam-Bắc có sự hiểu biết rất hạn chế về nhau, đặc biệt là giai đoạn 1975 trở
về trước. Tôi từng nói chuyện với nhiều người lớn tuổi sống ở Sài Gòn và thật
ngạc nhiên là họ không hề biết có cuộc Cải cách Ruộng đất tại miền Bắc. Nhiều
người dân miền Nam nghĩ rằng thảm họa họ phải gánh chịu là do người dân miền Bắc
gây nên mà không hề biết rằng cần phải gọi tên một cách chính xác, đích danh giới
chóp bu cầm quyền. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến người dân Việt
Nam nói chung khó mà có cái nhìn cảm thông, thấu hiểu cho nhau khi nhắc về ký ức
chiến tranh.
Làm sao mà một người miền Nam có thể hình dung
những người phụ nữ miền Bắc phải vạch áo, tự cho tay bóp thật mạnh vào bầu vú
trước mặt cán bộ để chứng minh mình không có sữa, hòng kiếm được cho đứa trẻ sơ
sinh con mình một xuất sữa bò theo tiêu chuẩn nhà nước. Nếu nặn hết sức và đầu
vú còn chảy ra vài giọt sữa, đứa trẻ sẽ không có tên trong danh sách được hưởng
chế độ hỗ trợ của nhà nước. Làm sao một người miền Nam hình dung nổi một ông thầy
giáo phải cúi mình, chào một thằng nhãi ranh bằng “ông” chỉ vì bố nó là cán bộ
cộng sản.
Khi người dân miền Nam có tivi, tủ lạnh dùng,
người miền Bắc vẫn bị cái đói bủa vây. Khi phụ nữ miền Nam biết trang điểm, mặc
áo dài, váy đầm, đi giày cao gót thì phụ nữ miền Bắc vẫn chưa biết đến cái băng
vệ sinh. Họ phải dùng vải vụn, thậm chí nhà nào đông chị em gái thì dùng chung
mấy tấm khăn vải màn. Dùng xong giặt sạch sẽ để các tháng sau mỗi kỳ kinh nguyệt
lại sử dụng tiếp. Tôi không muốn kể ra chuyện này, nhưng đó là nỗi khổ sở, thiếu
thốn điển hình của người dân miền Bắc từ những năm 1960, kéo dài đến tận thời
bao cấp. Hai miền Nam- Bắc tuy có những khác biệt ở mỗi giai đoạn lịch sử,
nhưng cùng chung một nỗi đau: niềm bất hạnh mang tên Việt Nam.
Chỉ có sự thấu hiểu, đồng cảm mới mang lại
tình thương yêu, đùm bọc cho nhau mà thôi. Ước gì ngày càng nhiều người dân Việt
Nam hiểu đúng về sự thật đã và đang xảy ra trên đất nước này để thôi oán hận,
trách cứ nhau, để cùng nhau xây dựng lại giang sơn. Muốn như thế, phải chỉ mặt
đặt tên được đâu là nguyên nhân, đâu là thủ phạm gây đau thương cho dân tộc
này.
*
Tuấn Khanh: Lưu vong ngay tại quê nhà là câu chuyện chị kể về bố chồng, nhưng rồi đến
chị, khi có người chồng cũng cùng số phận không khác gì hơn. Chị có thể nói
thêm về trường hợp chồng chị?
Phạm Thanh Nghiên: Thưa đây lại là một câu
chuyện dài nữa và có lẽ phải dành hẳn một bài tường trình riêng biệt. Từ khi chồng
tôi, anh Huỳnh Anh Tú ra tù cuối năm 2013 đến nay đã tám năm vẫn chưa được cấp
giấy tờ tùy thân, dù anh rất nỗ lực đến các cơ quan công an để xin cấp lại. Lần
nào cũng bị từ chối với rất nhiều lý do. Hiện chúng tôi vẫn đang tiến hành các
thủ tục đề nghị cấp giấy tờ tùy thân cho anh ấy. Hành trình này kéo dài đến nay
đã hai năm với rất nhiều thủ tục nhiêu khê. Chúng tôi phải đáp ứng những “điều
kiện pháp lý” mà sự khó khăn của nó gần như một sự đánh đố. Chúng tôi phải đi lại
rất nhiều lần lên các cơ quan công an từ cấp phường đến cấp quận, thành phố.
Không ít lần chúng tôi cự cãi với phía công an về những điều kiện (họ gọi là
“điều luật”) vô lý nhưng họ trả lời họ không biết, “cứ theo luật mà làm”. Một
tháng trước (ngày 6-4-2021), chúng tôi đã đáp ứng các “điều kiện pháp lý” trong
đó bao gồm những giấy tờ cần thiết để hoàn thiện hồ sơ, nộp cho công an quận Gò
Vấp để xin nhập hộ khẩu cho anh Tú.
Tưởng thế là xong nhưng họ lại đòi hỏi thêm
vài điều kiện (vô lý) khác, và cũng vẫn lấy lý do “luật quy định thế”. Tôi chưa
kịp hỏi luật sư xem yêu cầu đó của phía công an có thực sự đúng luật hay không
thì nhận được cuộc phỏng vấn này thành ra tôi cứ chia sẻ với quý độc giả trước.
Một điều đáng nói là trong quá trình làm các thủ tục giấy tờ, phía công an quận
Gò Vấp, cụ thể là cô đại úy thụ lý hồ sơ (tôi tạm giấu tên) không hướng dẫn một
cách đầy đủ, cụ thể những việc cần thiết, khiến chúng tôi phải đi lại rất nhiều
lần. Họ hẹn một tháng kể từ khi nộp hồ sơ sẽ trả lời, tức là ngày 6-5 là đủ một
tháng. Đến hẹn chúng tôi lên, họ lại trả lời cần đáp ứng điều kiện này, điều kiện
khác.
Cho đến giờ chúng tôi cũng không dám chắc là
anh Tú có được cấp giấy tờ tùy thân không nữa. Nếu không, họ nên có công văn trả
lời thẳng là không cấp và vì sao không cấp. Còn nếu được thì đến bao giờ? Chúng
tôi không thể bỏ thêm nhiều tháng, nhiều năm nữa để chờ đợi hoặc đi làm cái việc
khó hơn mò kim đáy bể này. Tù cũng tù rồi, đánh đập, đàn áp, vu khống, bôi nhọ
cũng nếm rồi, tài sản, nhà cửa bị cướp, bị tàn phá hết rồi. Họ còn muốn gì ở
chúng tôi nữa? Nhiều người nghĩ đơn giản là “cần gì giấy tờ của cộng sản”.
Nếu người ta ở đảo hoang thì đúng là không cần giấy tờ, nhưng trong một xã hội,
một đất nước cụ thể dù dưới chế độ dân chủ hay độc tài thì đây là việc đương
nhiên. Không có giấy tờ tùy thân, anh Tú không thể thực hiện được các giao dịch
dân sự, nói gì đến các việc quan trọng khác. Nhiều khi chúng tôi nghĩ, nếu
không vì đứa con, thì cứ sống nay đây mai đó, giấy tờ có cũng tốt, không có
cũng không sao.
Đảng cộng sản Việt Nam luôn tự hào họ là “lương
tâm và văn minh nhân loại”, nhưng hệ thống pháp lý của họ không chứng minh nổi
“lý lịch” của một công dân mà để anh ta sống lưu vong trên chính đất nước này.
Điều nghịch lý là, công an không chứng minh được lý lịch của anh ta trên giấy tờ
nhưng lại kiểm soát được mọi thứ liên quan đến anh ta, kể cả việc đi lại, các mối
quan hệ thậm chí quản lý cả tư tưởng của “đối tượng”.
*
Tuấn Khanh: Chị là người đã ghi chép những câu chuyện hiện thực nhức nhối, và viết
hay đến bất ngờ, dường như chị muốn đi con đường như một nhà văn tranh đấu hiện
thực…?
Phạm Thanh Nghiên: Một vài năm gần đây tôi
thường nhận được những lời khen ngợi từ các nhà văn chuyên nghiệp ở cả trong
cũng như ngoài nước, đặc biệt các độc giả. Đối với một người cầm bút, đó thực sự
là niềm khích lệ, phần thưởng vô giá. Song cũng là một thách thức không nhỏ cho
các bài viết tiếp theo của tôi (tôi không dám dùng từ “tác phẩm” hay “sáng tác”
nên dùng từ “bài viết”). Như từng có dịp chia sẻ với quý độc giả, tôi tin mình
không phải một nhà văn và có lẽ mãi mãi sẽ không trở thành một nhà văn. Tôi chỉ
là một người cầm bút “bất đắc dĩ”, ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy từ
chính cuộc đời mình, từ những cuộc đời khác trong xã hội. Cũng có lần tôi thử đặt
bút viết về một đề tài khác, không liên quan gì đến hiện thực xã hội. Tính viết
chơi chơi vậy thôi, không định chia sẻ với ai. Nhưng tôi không viết nổi. Chỉ
vài dòng đã thấy nhạt nhẽo, cảm giác như không phải là chính mình. Tôi không phải
nhà văn. Tôi là một blogger và tôi muốn viết về những hiện thực đang diễn ra
trên đất nước này.
Sài Gòn ngày 8 tháng 5 năm
2021.
Posted by Phạm Thanh Nghiên at 4:21 AM
No comments:
Post a Comment