Phó
tổng thống Mỹ đến Việt Nam tìm thêm đối tác kiềm chế Trung Quốc
Thu Hằng - RFI
Đăng
ngày: 23/08/2021 - 12:20
Phó tổng
thống Hoa Kỳ Kamala Harris công du Việt Nam 24-25/08/2021, đúng một tháng sau
chuyến thăm của bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin. Hà Nội trở thành đối tác
quan trọng của Washington trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà chính quyền Biden
coi là chủ chốt để ngăn chặn bành trướng Trung Quốc.
Phó
tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris họp báo chung với thủ tướng Singapore Lý Hiển
Long tại Singapore, ngày 23/08/2021. AP - Evelyn Hockstein
Vào đầu
tháng Tám, tại Hội nghị thường niên bộ trưởng Ngoại Giao ASEAN - Hoa Kỳ, ngoại
trưởng Anthony Blinken cũng tái khẳng định “Hoa Kỳ duy trì cam kết vững
chắc đối với cấu trúc khu vực lấy ASEAN làm trung tâm, cũng như ủng hộ mạnh mẽ
Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”.
Hai chuyến
công du Đông Nam Á liên tiếp trong vòng một tháng của quan chức cấp cao Mỹ còn
cho thấy Washington tìm cách trấn an đồng minh và đối tác về “cam kết
lâu dài trong vùng”, Hoa Kỳ “là một phần của vùng Ấn Độ-Thái Bình
Dương” và “sẽ ở lại đó”.
Vấn đề bảo
vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông, tăng cường vai trò lãnh đạo của Mỹ trong vùng
và mở rộng hợp tác quốc phòng là những chủ đề chính được phó tổng thống Hoa Kỳ
trao đổi với Singapore và Việt Nam trong chuyến thăm. Tuy nhiên, chuyến đi của
bà Kamala Harris rơi đúng vào thời điểm Mỹ rút quân khỏi Afghanistan. Tình trạng
hỗn loạn, bất ổn, khó khăn vẫn diễn ra ở quốc gia Trung Á này.
Bối cảnh
trên có gây tác động đến chuyến công du Việt Nam của phó tổng thống Mỹ ? RFI Tiếng
Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường Sư Phạm Lyon tại
Pháp.
Nhà
nghiên cứu Laurent Gédéon,
giảng viên Viện Đông Á Lyon (Institut d'Asie orientale), thuyết trình tại trường
Sư phạm ở Paris, ngày 18/01/2019. RFI / Tiếng Việt
RFI
: Chuyến công du Hà Nội của phó tổng thống Mỹ Kamala Harris được lên kế
hoạch từ trước, nhưng diễn ra trong bối cảnh khá tế nhị cho Washington, sau quyết
định rút hết quân Mỹ khỏi Afghanistan. Tại sao lại có đến hai chuyến công du Việt
Nam ở cấp cao như vậy trong vòng một tháng ? Và bối cảnh hiện nay ở Afghanistan
có tác động đến cách nhìn của Hà Nội về chuyến công du của phó tổng thống
Harris và uy tín của Hoa Kỳ ?
Laurent
Gédéon : Theo
tôi là có, bởi vì việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan mang khía cạnh biểu tượng,
như báo chí nêu là có sự tương đồng đáng kinh ngạc về cách quân đội Mỹ vội vã
rút quân khỏi Kabul giống như cách quân Mỹ nhanh chóng rời khỏi Sài Gòn cách
đây hơn 40 năm, vào năm 1975.
Có thể thấy
là sự tương đồng này gợi nên cùng một câu hỏi : Về cơ bản, liệu cam kết của Hoa
Kỳ với một đối tác có thể kéo dài và bền vững không ? Hay ngược lại dần dần có
những thay đổi chiến lược tương đối đột ngột dẫn đến việc Hoa Kỳ giảm cam kết
và để đối tác hay đồng minh một mình đối phó với sức ép từ đối thủ, kẻ thù ?
Chúng ta
hoàn toàn có thể đặt bối cảnh này vào chuyến công du của bà Kamala Harris. Chuyến
thăm của phó tổng thống Mỹ đúng là để trấn an Việt Nam, gửi tới Hà Nội một
thông điệp tích cực, bảo đảm rằng Hoa Kỳ vẫn vô cùng quan tâm đến vấn đề Ấn Độ-Thái
Bình Dương.
Tôi nghĩ
là chính quyền Biden tiếp quản tính liên tục trong chiến lược của chính quyền
Obama, cũng như nhận thức và đánh giá chiến lược cách đây khoảng 10 năm. Có
nghĩa là đối thủ cạnh tranh chính của Hoa Kỳ là Trung Quốc, cần phải củng cố
hơn sự hiện diện của Mỹ ở Thái Bình Dương, cũng như những mối quan hệ mà Mỹ có
thể duy trì với các đối tác được đánh giá là quan trọng, thậm chí là sống còn,
trong trường hợp đối đầu với Trung Quốc. Trong trường hợp này, Việt Nam đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược địa-chính trị của Mỹ.
Tôi muốn
nói thêm về trường hợp Afghanistan. Việc Mỹ rút quân khỏi Afghanistan mở rộng cửa
cho nhiều nước có sức ảnh hưởng khác vào quốc gia Trung Á này, trong đó có
Trung Quốc. Nếu nhìn rộng hơn về phân tích chiến lược, có thể coi việc Mỹ rút
khỏi Afghanistan sẽ tác động đến khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, do Bắc Kinh sẽ
can dự vào những lĩnh vực mới, thâm nhập vào những không gian mới để gia tăng ảnh
hưởng. Điều này vừa giúp Trung Quốc mạnh hơn vừa khiến nước này dễ bị tác động
từ nhiều kiểu sức ép khác nhau.
*
RFI : Trước
chuyến công du của phó tổng thống Kamala Harris, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã
thăm Việt Nam ngày 28-29/07. Một số ý kiến cho rằng chuyến công du của ông
Lloyd Austin cũng nhằm thăm dò Hà Nội về khả năng thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược. Ông nghĩ gì về điểm này ?
Laurent
Gédéon : Đúng là
bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã bày tỏ mong muốn của Washington chuyển mối quan hệ
hiện nay với Việt Nam thành đối tác chiến lược khi ông tiếp kiến chủ tịch nước
Nguyễn Xuân Phúc ngày 29/07/2021. Tôi nghĩ là phải điểm lại một chút bối cảnh
đã khiến Hoa Kỳ đề xuất nâng cấp mối quan hệ lên thành đối tác chiến lược, cũng
như mối quan hệ song phương từng bước được cải thiện từ 25 năm nay.
Chúng ta
thấy là ngày càng có nhiều thỏa thuận và các chuyến công du song phương, ví dụ
Đối thoại Quốc phòng song phương do Bộ Chỉ Huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ chủ trì,
Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc phòng do bộ Ngoại Giao hai nước chủ trì,
hoặc Đối thoại về Chính sách Quốc phòng được bộ Quốc Phòng hai nước tổ chức…
Song song đó là các chuyến công du cũng tăng lên, đặc biệt trong những năm 2010,
như những chuyến thăm Hoa Kỳ của nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam, hay hai chuyến
công du Việt Nam của nguyên thủ Mỹ Barack Obama và Donald Trump vào năm 2016 và
2017.
Đặc biệt
hơn liên quan đến Biển Đông, chúng ta thấy là Hoa Kỳ ngày càng chú tâm nhiều hơn
vào vấn đề các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhất là dưới thời tổng thống
Donald Trump. Trước đó, Washington chỉ đơn thuần kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc
tế về tự do lưu thông hàng hải, nhưng cũng đẩy Hà Nội và Bắc Kinh vào thế đối đầu
nhiều hơn về vấn đề chủ quyền các quần đảo. Dưới thời tổng thống Trump, tuy
không công nhận những yêu sách chủ quyền của Việt Nam, nhưng Washington đã thay
đổi lập trường đối với Trung Quốc khi cáo buộc đích danh Bắc Kinh “bành trướng”.
Chúng ta
cũng thấy là từ năm 2017, tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam đã được Hoa Kỳ
tái khẳng định, kể cả trong nhiều tài liệu quan trọng như Chiến lược an ninh Quốc
gia Hoa Kỳ (National Security Strategy) năm 2017 và 2018 và trong báo cáo Ấn Độ
- Thái Bình Dương năm 2019. Những sự kiện này đã đưa đến bối cảnh hiện nay,
trong đó Mỹ và Việt Nam đã có mối quan hệ quan trọng trong nhiều lĩnh vực, dĩ
nhiên là từ kinh tế, quân sự cho đến văn hóa và khoa học.
Vì Hà Nội
và Washington đã nâng tầm quan hệ lên thành đối tác toàn diện vào năm 2013, nên
theo tôi, việc hướng đến đối tác chiến lược sẽ chủ yếu mang tính biểu tượng để
tăng cường mối quan hệ song phương, vốn đã vững mạnh, và cho thấy mức độ tin cậy
còn cao hơn giữa hai nước.
*
RFI
: Liệu thái độ quá nhiệt tình của Mỹ có gây ảnh hưởng cho Việt Nam,
cũng như tác động đến quan hệ Việt - Trung không ?
Laurent
Gédéon : Có, có
lẽ sẽ có tác động vì khi nhìn vào cách mà tôi gọi là “áp lực” của Mỹ tới Việt
Nam, muốn Hà Nội xích lại gần với Washington và khi nhìn vào “lời mời” Việt Nam
tham gia đối tác chiến lược với Mỹ, dĩ nhiên đằng sau đó có một thông điệp gửi
đến Trung Quốc.
Rõ ràng từ
quan điểm của Washington, sự phát triển nhanh chóng quan hệ đối tác giữa Việt
Nam và Mỹ có thể được cho là cả hai nước có chung nhận thức về mối đe dọa liên
quan đến Trung Quốc, trong đó có vấn đề Biển Đông. Vẫn theo Mỹ, Việt Nam có vai
trò chủ đạo cần đảm nhiệm trong việc bảo đảm lối vào khu vực biển này được tự
do và rộng mở, đồng thời biết rằng Việt Nam là đối tác không thể thiếu trong nỗ
lực này.
Điểm này
được thể hiện qua các chuyến thăm song phương, qua những thỏa thuận được ký kết
mà chúng ta nêu ở trên. Tôi muốn nói thêm đến những chuyến thăm cảng của các tầu
sân bay Mỹ Carl Wilson vào năm 2018 và Theodore Roosevelt vào năm 2020.
Đây là những chuyến thăm đầu tiên của Mỹ theo kiểu này kể từ khi chiến tranh Việt
Nam kết thúc.
Ngoài vấn
đề biểu tượng, những chuyến thăm này còn tỉ lệ thuận với tầm quan trọng của Việt
Nam trong chiến lược quân sự hàng hải của Mỹ. Chúng ta cũng thấy là vị trí của
Việt Nam luôn được nhìn nhận như là một tiềm lực quân sự đáng kể trong khu vực
so với Trung Quốc, cũng như đối với QUAD+ (Bộ Tứ mở rộng, gồm Úc, Mỹ, Nhật Bản,
Ấn Độ và các đối tác, đồng minh). Các bước tham gia của Việt Nam chắc chắn sẽ
được chuẩn bị kỹ lưỡng để không làm đảo lộn mối quan hệ tế nhị giữa Hà Nội và Bắc
Kinh.
Liên quan
đến mối quan hệ chiến lược có thể ký với Mỹ, chắc chắn là Việt Nam sẽ rất thận
trọng trong mảng quân sự để thỏa thuận này không bị coi như là một kiểu liên
minh quân sự trá hình nhắm trực tiếp đến Trung Quốc. Nhưng đồng thời, điều quan
trọng đối với Hà Nội cũng là tăng cường khả năng răn đe đối với Bắc Kinh thông
qua mảng hợp tác quân sự của đối tác chiến lược này.
Vì thế Hà
Nội ở thế khó : Không được tỏ ra quá đe dọa, nhưng cũng phải thể hiện đáng
tin cậy, mà vẫn có sức răn đe đối với Trung Quốc. Tôi nghĩ là phải chú ý đặc biệt
đến vế quân sự trong đối tác chiến lược nếu được ký kết, vì điểm này sẽ cho thấy
những ý định rõ ràng của cả hai bên, cũng như những ẩn ý của Hà Nội và
Washington.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, trường Sư phạm
Lyon (ENS de Lyon), Pháp.
***
CÁC
NỘI DUNG LIÊN QUAN
Bộ
trưởng Quốc Phòng Mỹ thảo luận với đồng nhiệm Việt Nam về mở rộng hợp tác an
ninh
Bộ
trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin công du Hà Nội, nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ
Bộ
trưởng Quốc Phòng Mỹ thăm Việt Nam, trọng tâm là hợp tác quân sự và an ninh
No comments:
Post a Comment