Ba
nút thắt tiến hóa kìm hãm sự phát triển con người và xã hội Việt Nam
Trần
Kế Dũng
07/08/2021
Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách
đổi mới, đất nước đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận về kinh
tế, chính trị và xã hội. Tuy nhiên nhìn kỹ vào những thành tựu này
nó dựa trên hai yếu tố cơ bản. Thứ nhất là chính sách cởi trói,
tức là tháo gỡ những vướng mắc đã được dựng lên trước đó để hòa
nhập chung với điều kiện và tiêu chuẩn quốc tế. Thứ hai là do điều kiện
thuận lợi của thế giới đem lại, như vốn tư bản, công nghệ và thị
trường.
Tuy nhiên những thuận lợi ấy mặc dù vẫn
còn đang tiếp tục diễn ra nhưng không có gì bảo đảm rằng chúng sẽ tồn
tại lâu dài trong tình hình thế giới biến động liên tục như hiện nay.
Hơn nữa, khi đã vượt qua ranh giới của những nước nghèo tức nhân công
giá rẻ thì nó sẽ trở thành một vấn đề hoàn toàn khác, Việt Nam
phải chuyển từ sự phát triển dựa vào các lợi thế từ bên ngoài mang
lại sang sự phát triển dựa trên nội lực của chính mình. Phải làm
sao? Đây là một vấn đề khó mang bản chất của sự tiến hóa, không
phải là sự may mắn đã từng xảy ra nữa.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ bàn đến
những vấn đề còn vướng mắc, còn tồn đọng trong lòng Việt Nam, tháo
gỡ những vướng mắc này để chuẩn bị cho giai đoạn kế tiếp mang tính
sống còn, quyết định hội nhập vào dòng chảy tiến hóa chung của thế
giới.
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể các
nút thắt này, chúng ta tìm hiểu qua về ba bước tiến hóa của vật
chất và năng lượng, một bức tranh tổng quát về những gì đang hiện
hữu quanh chúng ta. Với những thành tựu của khoa học vật lý thiên
văn, kể từ khi có big bang tới nay, vật chất đã được hình thành tồn
tại và phát triển ở ba dạng hình thức cơ bản, đó là vật chất tự
nhiên, vật chất sinh học và cuối cùng là vật chất nhân tạo. Tuy
nhiên, khi nhìn sâu hơn vào từng giai đoạn của các nhóm vật chất ấy
chúng ta nhận thấy chúng cũng được hình thành, tồn tại và phát
triển thành ba nhóm và ba giai đoạn khác nhau.
Đối với vật chất tự nhiên, sau các vụ
nổ vật chất được sinh ra ở các dạng khác nhau đến thế hệ thứ ba,
tức hệ mặt trời được sinh ra cách đây khoảng năm tỉ năm, trong đó có
trái đất của chúng ta với một dãy các nguyên tố hóa học, đã được
tìm thấy từ vật chất nhẹ như hydro, heli đến các vật chất nặng trong
nhóm các chất đồng vị phóng xạ.
Nhóm thứ hai là vật chất sinh học, được
sinh ra sau đó khoảng bốn tỉ năm trước cho đến nay chúng cũng hình
thành và tồn tại thành ba nhóm chính đó là thực vật, động vật ăn
cỏ và cuối cùng là động vật ăn thịt.
Nhóm thứ ba là vật chất nhân tạo, chúng
là những sản phẩm do con người tạo ra, dựa trên hai yếu tố căn bản
là sức lao động và trí tuệ của con người. Chúng được hình thành và
tồn tại và phát triển ba giai đoạn và ba hình thức khác nhau là sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và cơ khí hóa cuối cùng là tự động
hóa và trí tuệ nhân tạo. Như vậy, tới đây chúng ta thấy được vật
chất đã được sinh ra, tồn tại và phát triển thành chín nấc ba giai
đoạn khác biệt nhau.
Khi chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu toàn
bộ hệ thống này cùng với những điều kiện cần và đủ, tương tác qua
lại với nhau như thế nào, bản chất của mối quan hệ ấy là gì? Mối
quan hệ giữa chất, lượng và cơ chế cấu trúc của vật chất trong mỗi
giai đoạn tiến hóa là gì? v.v… tìm ra những câu trả lời để ứng dụng
cho quá trình phát triển.
Khám phá tất cả những gì liên quan tới
chín bước phát triển ấy nhằm kiểm soát chúng nhưng đồng thời chính
những nguyên tắc và quy luật đó tác động ngược trở lại cuộc sống
của con người, khiến cuộc sống và quyết định của con người đòi hỏi
ngày càng cao và chính xác hơn. Sau đây chúng ta tìm hiểu một đoạn
từ bốn tới sáu trong chuỗi chín bước đã nêu trên, tức là nhóm vật
chất sinh học. Vì chúng là những hình đồng dạng phối cảnh của nhóm
vật chất nhân tạo mà chúng ta muốn tìm hiểu và khám phá.
Đại diện cho ba nhóm trong khối vật chất
sinh học, chúng ta đi tìm hiểu mối quan hệ giữa cỏ, bò, sư tử trong
hệ cân bằng sinh thái và chuỗi thức ăn. Dựa trên những thành tựu của
nghiên cứu khoa học, chúng ta có ngay được những kết luận sau:
Tất cả sinh vật đều kết nối với nhau
thành một vòng tròn khép kín (chuỗi thức ăn).
Đầu vào của nhóm này cân bằng với đầu
ra của nhóm kia (hệ cân bằng sinh thái)
Số lượng chủng loại tham gia vào vòng
tròn sinh học này càng nhiều, thì tốc độ quay của vòng tròn ấy tăng
lên.
Một nhóm hay một chủng loại trong vòng
tròn ấy mất đi thì vòng tròn sinh thái ấy bị đổ vỡ, ví dụ nếu cỏ
mất đi thì bò và sư tử mất theo, hoặc ngược lại, nếu sư tử mất đi
thì bò cũng đứng trước nguy cơ bị hũy diệt vì sinh sản quá nhiều,
làm cạn kiệt nguồn thức ăn và lây lan dịch bệnh.
Càng phát triển lên cao thì không gian sinh
tồn càng mở rộng và xếp chồng thành các tầng lớp khác nhau.
Mỗi sự thay đổi về số lượng, chủng
loại, tới điểm giới hạn sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, song song
với nó là sự thay đổi về cơ chế và cấu trúc. Ví dụ, nếu chỉ có
một diện tích đồng cỏ ở mức độ giới hạn thì không còn tồn tại bò
ở đó, chỉ khi diện tích đủ lớn để cung cấp thực phẩm cho một “gia
đình” bò, thì chúng mới xuất hiện, tương tự như vậy số lượng bò được
sinh ra đủ cung cấp cho một gia đình sư tử mà không ảnh hưởng tới sự
tồn tại của chúng. Qua đó, chúng ta thấy mỗi bước tiến hóa là một
sự thay đổi đồng thời của cơ chế cấu trúc cơ thể trong thế giới vật
chất sinh học…
Quy luật phát triển của vật chất tự
nhiên, vật chất sinh học và vật chất nhân tạo chúng là những hình
đồng dạng phối cảnh, những nguyên tắc và quy luật được tái thể hiện
trong xã hội loài người như thế nào?
Chúng ta sẽ đi tìm hiểu nhưng có một
điểm khác biệt lớn nhất để phân biệt chúng với nhau là cả ba lĩnh
vực chất, lượng và cơ chế của vật chất tự nhiên và vật chất sinh
học là do tự nhiên sinh ra, do tự nhiên kiểm soát và điều tiết chúng.
Còn đối với vật chất nhân tạo thì cả ba lĩnh vực chất, lượng và cơ
chế cấu trúc của chúng hoàn toàn do con người tìm ra, tạo dựng và
kiểm soát chúng thoát khỏi sự kiểm soát của con người, chúng có xu
hướng trở lại trạng thái mà chúng đã sinh ra.
Câu hỏi ở đây được đặt ra là, con người
đã làm gì và làm như thế nào để kiến tạo và kiểm soát ba hệ
thống chất, lượng và cơ chế cấu trúc của khối vật chất nhân tạo từ
khi nó hình thành và phát triển đến như ngày hôm nay? Chúng ta sẽ xem
xét cụ thể trường hợp Việt Nam trong ba điểm chính mà ở phần đầu
chúng ta đã đề cập tới là ba nút thắt trong hàng loạt một dãy các
điểm cần quan tâm xây dựng sửa đổi và tháo gỡ.
Nút thắt thứ
nhất: Giá trị và hệ thống giá trị xã hội
Chúng ta xem xét ví dụ sau:
Một người dệt vải thủ công một ngày
dệt được 1m vải, trị giá khi bán ra là $20. Anh ta sáng chế ra một
chiếc máy dệt với tổng chi phí gồm lao động, nguyên vật liệu là
$5000. Sau một năm sử dụng, trừ tất cả tiền công lao động, khấu hao
máy, nguyên nhiên liệu … còn dư ra là $10.000 (lãi). Như vậy là tiền
công lao động thủ công là $20 x 250 ngày = $5000, nay chuyển qua dùng
máy thành $5000 +$10.000 = $15.000 hay $15.000 ÷ 250 ngày = $60/ngày
Anh ta chuyển sang sản xuất máy để bán
nhưng không bán với giá sản xuất là $5000 vì không có lời. Nhưng anh
ta không thể bán với giá $15.000 (giá sản xuất + tiền lời) vì người
mua máy về sử dụng không sinh ra lời.
Sau khi thương lượng họ quyết định chia
đôi số tiền lời ấy và máy được bán với giá $5000 (giá sản xuất) +
($10.000 ÷ 2) = $10.000
Người mua máy về lập xưởng sản xuất và
thuê mướn lao động. Tuy nhiên anh ta không thể kiếm được người làm nếu
trả với mức lương $20/ ngày, bằng với giá lao động thủ công và anh ta
cũng không thể trả với mức lương $40/ngày vì không có lời.
Tương tự như trên, hai bên thỏa thuận chia
đôi số tiền lời và giá lương mới là $30/ngày, hai bên cùng có lời.
Qua ví dụ trên cho thấy rằng mọi hàng
hoá đều chứa đựng trong nó ba hệ thống giá trị gồm giá sản xuất,
giá trao đổi và giá trị sử dụng.
Qua ví dụ trên chúng ta rút ra được
những kết luận mang tính nguyên tắc và qui luật từ quá trình đó sinh
ra.
– Bản chất của giá trị là lợi ích vì
khi các chủ thể đem trao đổi các lợi ích đó với nhau từ đó sinh ra
giá trị trao đổi. Khi giá trị sản xuất bằng với giá trị sử dụng
thì giá trị sản xuất, giá trị trao đổi và giá trị sử dụng bằng
nhau.
Nhưng khi giá trị sử dụng tăng lên, chúng
tách ra thành ba hệ thống giá trị khác biệt và giá trị trao đổi
trở thành điểm cân bằng giữa các chủ thể kinh tế, giữa các khu vực
kinh tế tạo ra hệ cân bằng xã hội.
Những giá trị này chúng không bằng nhau
mà đầu vào của nhóm này bằng với đầu ra của nhóm kia (tương tự như
trong thế giới vật chất sinh học).
– Nếu với năng suất lao động ban đầu của
người thợ dệt vải chỉ đủ để trang trải cuộc sống thì anh ta không
thể có tài chính để phục vụ cho việc chế tạo máy dệt vải (sống
trong thời gian làm việc, mua nguyên nhiên liệu…) và khi anh ta bán
chiếc máy dệt đó khả năng tích lũy tài chính tăng lên, thuận lợi cho
quá trình kế tiếp, do đó từ sự xuất hiện của hệ thống giá trị
trao đổi năng lực tích lũy vốn xã hội tăng lên theo, đẩy nhanh quá
trình tiến hóa xã hội.
– Nhờ khoa học và kỹ thuật mà giá trị
sử dụng tăng lên, sinh ra tích lũy xã hội nhưng đồng thời hình thành
một hệ thống giá trị mới, giá trị khoa học kỹ thuật. Đây là điều
kiện cho sự đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật trong xã hội và mang
tính xã hội một cách phổ quát.
– Như mọi người điều biết, quá trình
tiến hoá của nhận thức và tư duy con người nó đồng thời cho ra đời
các hệ số đo lường, vật chuẩn… Với sự ra đời của giá trị trao đổi
nó trở thành một hệ thống giá trị vật chuẩn để con người lấy làm
căn cứ xác định các giá trị khác như cũ, mới, tốt, xấu, đắt, rẻ…
Nhờ vào đó mà các chủ thể xã hội tự
điều chỉnh sự phát triển cho phù hợp. Không có hệ thống giá trị
chuẩn này, con người làm việc mà không biết mình đang làm gì cho xã
hội, toàn bộ xã hội chuyển qua trạng thái vô định và hoang tưởng.
– Tương tự như đường thái cực hay đường
kinh lạc trong đông y. Nếu chúng ta nối các hệ thống giá trị trao đổi
lại với nhau, chúng hình thành lên một hệ thống tương tự như kinh
mạch trong cơ thể người. Nó trở thành một công cụ đắc lực và hữu
hiệu trong việc quản lý điều hành kinh tế và cân bằng xã hội. Các
nước phát triển hiện nay chủ yếu quản lý và điều tiết xã hội thông
qua hệ thống này.
– Nhờ có tự do trao đổi mà xã hội hình
thành nên một nền văn hoá mới – văn hoá giao tiếp ….
Kết luận:
Quy luật tiến hóa và phát triển của
vật chất quyết định sự phân công, cấu trúc và tư duy xã hội của con
người trong đó có hệ thống giá trị. Việc áp dụng công thức tính
giá trị sức lao động bằng thời gian lao động cần thiết như của Marx
viết trong tư bản luận, đã phá hủy nguyên tắc cân bằng giữa lợi ích
và giá trị đẩy hệ thống kinh tế kế hoạch vào tình trạng bất công,
tê liệt và đi đến tới chỗ phá sản.
Qua ví dụ ở trên cho thấy, quá trình
tiến hóa của sản xuất hàng hoá dẫn đến sự phân công và phân cấp xã
hội. Nó là quy luật vật chất khách quan, độc lập với ý thức chủ
quan của con người. Nói cách khác, xoá bỏ sự phân công và phân cấp
thì cũng đồng thời chối bỏ đi sự tiến hóa. Đây là một thực tế đã
từng xảy ra.
Và tất nhiên nếu không có tự do trao đổi
thì những điều trình bày ở trên sẽ biến mất và ngược lại, khi và
chỉ khi có trao đổi, khi người ta có sở hữu vì không ai có thể đem đi
trao đổi cái không phải của mình. Đây là nguyên nhân dẫn đến các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản.
Nút thắt thứ
hai: Sở hữu
Cách mạng dân chủ tư sản xác lập quyền
sở hữu cho mọi chủ thể, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự bắt đầu một
thế giới tự do, bình đẳng và công bằng, nó đã xóa bỏ quan hệ từ
hình thức cưỡng chế, cướp đoạt, nên một hình thức cao hơn là trao
đổi lợi ích.
Như chúng ta biết, mọi vật chất đều
chiếm giữ một khoảng không gian cho riêng nó. Với vật chất sinh học,
chúng phải thực hiện việc trao đổi chất với thế giới chung quanh.
Phần mở rộng này thuộc không gian sinh tồn của sinh thể ấy. Nhưng
càng phát triển lên cao thì không gian ấy càng mở rộng này, xảy ra
sự va đập, cọ sát hay chồng lấn lên nhau, dẫn đến nguy cơ xung đột.
Quyền được sống và quyền được phát
triển của con người dẫn đến nhu cầu cần thiết phải thiết lập đường
biên giới, giới hạn và cách thức quan hệ trao đổi cho mọi chủ thể
để cùng tồn tại và phát triển quyền sở hữu ra đời, để đáp ứng cho
những nhu cầu đó.
Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là cái gì đã
tạo ra? Nội dung bên trong của sở hữu trước khi nó trở thành quyền và
luật? Hay sở hữu là gì?
Tất nhiên ai cũng biết sở hữu có nguồn
gốc từ lao động của mỗi cá nhân tạo nên, nó bao gồm ba nội dung
chính:
Thứ nhất là do năng lực lao động. Thứ hai là do lợi ích của sản
phẩm từ lao động đem lại. Thứ ba là cảm xúc, cảm giác… (các
phản ứng và hiện tượng sinh hoá) sinh ra trong quá trình lao động mang
nội dung văn hoá hay nói cách khác, nếu không có ba yếu tố trên thì
sở hữu không hình thành, hoặc đã có, cũng sẽ tự tiêu hoá đi, hoặc
bị chuyển quyền, chuyển đổi sang chủ sở hữu khác.
Nhưng vấn đề quan trọng khác là cái gì
xảy ra khi thực hiện quá trình trao đổi sở hữu (mua bán hàng hoá)
trong các mối quan hệ xã hội mà trong đó có đồng tiền làm vật trung
gian cho quá trình trao đổi ấy, tức là các vật thể trong đó bao gồm
năng lực, lợi ích, văn hóa được trao đổi với nhau giữa người này với
người khác.
Năng lực sinh ra trách nhiệm. Lợi ích
sinh ra quyền hạn và cuối cùng là sự trao đổi văn hoá song song với
hiện tượng đó là ý thức trách nhiệm, ý thức về quyền hạn và ý
thức văn hóa được hình thành và phát triển ngày càng cao trong các
chủ thể xã hội khi tham gia vào quá trình trao đổi ấy. Nó tạo ra
một trật tự tự nhiên trong xã hội dựa trên sự tồn tại và phát triển
của hệ thống ý thức này. Đây là một lĩnh vực quan trọng bậc nhất
trong sự phát triển và đánh giá mức độ tiến hóa của xã hội. Dựa
trên hai thành phần gồm:
1- Trách nhiệm, quyền hạn và văn hoá
sinh ra từ trong quan hệ trao đổi.
2- Hệ thống ý thức đó hình thành tồn
tại phát triển theo thời gian trong tư duy và nhận thức con người.
Cả hai yếu tố đó là nền móng cho sự
tồn tại của luật pháp và đạo đức xã hội. Không có quá trình từ
sở hữu đến trao đổi và hệ thống ý thức, lập tức xã hội bị chuyển
qua tình trạng rối loạn, luật pháp và đạo đức từ từ bị băng hoại
toàn bộ, hệ thống giá trị bị đảo lộn nghiêm trọng… Đây là tình
trạng xã hội Việt Nam hiện nay.
Đối với vấn đề đạo đức, câu hỏi đặt ra
là: Đạo đức từ đâu mà ra? Nó sinh ra để làm gì?
Khi ý thức trách nhiệm và quyền hạn
đối diện với ba hệ thống giá trị là hệ thống giá trị bản thân, hệ
thống giá trị gia đình và hệ thống giá trị xã hội mà trong quá
trình chuyển động và phát triển chúng nảy sinh những mâu thuẫn. Giải
quyết những mâu thuẫn phát sinh này là vấn đề mà chúng ta gọi là
đạo đức.
Đạo đức và trật tự tự nhiên của xã
hội tỉ lệ thuận với sở hữu và tự do trao đổi. Để duy trì một xã
hội không có sở hữu và tự do trao đổi là chủ nghĩa lãnh tụ sùng
bái cá nhân, tuyên truyền và cảnh sát trị.
Song song với việc tước đoạt quyền sở
hữu và tự do trao đổi là ý thức con người trong xã hội trở về từ
thời kỳ hoang dã và man rợ. Con người bị tước đoạt mất quyền tự
chủ của mình về hành vi đạo đức
Nút thắt thứ
ba: Nhà nước và cơ chế xã hội
Mối
quan hệ giữa chất, lượng và cơ chế
Như chúng ta đều biết, trong quá trình
tiến hoá của vật chất từ vật chất tự nhiên đến vật chất sinh học
và vật chất nhân tạo thì quá trình thay đổi về chất, dẫn đến sự
thay đổi về lượng và cơ chế cấu trúc của vật chất cả ba yếu tố đó
diễn ra đồng thời, tác động qua lại, ảnh hưởng với nhau, ví dụ
nguyên tố vật chất tự nhiên như carbon với những cấu trúc khác nhau
có thể trở thành siêu cứng, siêu nhẹ, siêu dẫn… và trong phản ứng
nhiệt hạch hay phóng xạ sau khi giải phóng năng lượng cấu trúc của
nó thay đổi để trở thành một chất khác.
Vất chất sinh học cũng vậy, mỗi bước
tiến hoá là một quá trình thay đổi đồng bộ chất lượng và cơ chế
cấu trúc của vật chất. (Cấu tạo cơ thể sinh vật).
Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy rằng, đối
với vật chất tự nhiên và vật chất sinh học thì cả ba lĩnh vực
chất, lượng và cơ chế, cấu trúc của vật chất là do tự nhiên sinh ra
và do tự nhiên kiểm soát chúng.
Đối với vật chất nhân tạo thì toàn bộ
chất, lượng và cơ chế cấu trúc của nó là do con người tạo ra và
kiểm soát chúng, hay nói ngược lại là, khi thoát khỏi sự kiểm soát
của con người trên cả ba lĩnh vực chất, lượng, cơ chế cấu trúc, thì
khối vật chất nhân tạo ấy có xu hướng trở về điểm nó bắt đầu.
Qua mỗi giai đoạn phát triển của vật
chất nhân tạo, tương đương với chất và lượng thì có một hình thức cơ
chế, cấu trúc xã hội tương ứng. Mỗi cơ chế và cấu trúc xã hội lại
tương ứng với một hình nhà nước và thể chế chính trị cho chính bản
thân nó. Xã hội loài người trải qua ba hình thức và giai đoạn phát
triển, từ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và dân chủ tư sản.
Cơ chế xã hội trong chế độ chiếm hữu nô
lệ là một chiều từ trên xuống.
Chế độ quân chủ lập hiến dùng luật
pháp và quan lại làm trung gian điều tiết xã hội. Vậy cơ chế của xã
hội dân chủ là gì? Và đối tượng điều tiết của nó là gì?
Cơ chế xã hội tự do và dân chủ được
hình thành khi Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ. Những di dân đầu tiên
từ châu Âu đến khai thác vùng đất mới khi ở đó chưa có nhà nước và
luật pháp (vô chính phủ). Mọi người tự tổ chức cuộc sống của mình
và quan hệ trao đổi trực tiếp với nhau không qua bất kỳ trung gian
nào. Họ tự đặt ra luật lệ cho chính họ và hình thành lên một lối
sống tự do.
Một cơ chế xã hội mới được hình thành:
Đa phương hai chiều trực tiếp giữa các chủ thể xã hội. Tức là kinh
tế thị trường tự do, người bán quan hệ trực tiếp với người mua,
giáo viên với học sinh, nhà văn với bạn đọc, bác sĩ với bệnh nhân,
toà án với công lý, nghị sĩ với cử tri, nhà nước với quyền lợi
quốc gia …
Chính cái cơ chế xã hội mới này tạo ra
văn hóa và lối sống Mỹ và nó ngày càng mâu thuẫn với nhà nước cai
trị. Quân chủ lập hiến từ mẫu quốc áp đặt lên nó. Sự va chạm giữa
hai cơ chế xã hội dẫn đến cuộc cách mạng giành độc lập của nước Mỹ
mà trong bản tuyên ngôn độc lập, phần nguyên nhân đã liệt kê đầy đủ
những mâu thuẫn đó. (Trích tuyên ngôn độc lập Mỹ, phần lý do mở
đầu).
Sự ra đời của nước Mỹ đã mở ra một kỷ
nguyên phát triển mới cho văn minh nhân loại, nó nhanh chóng lan tỏa ra
toàn thế giới và duy trì sự phát triển vượt suốt mấy thế kỷ qua.
Như chúng ta đã đề cập tới mối quan hệ
giữa chất, lượng và cơ chế cấu trúc xã hội vậy sau khi cơ chế và
cấu trúc xã hội mới được xác lập thì nó ảnh hưởng tới chất và
lượng như thế nào? Chúng ta đi tìm hiểu vài nét cơ bản mà nó sinh ra
từ cơ chế xã hội này.
Tổng các mối giao tiếp xã hội tăng lên
một cách đột biến, từ đó đẩy cung và cầu tăng theo tỉ lệ thuận. Chi
phí hành chính và quản trị xã hội giảm vì từ quản lý con người
chuyển qua hình thức mới là quản lý kiểm soát, điều tiết hệ thống
giá trị. Con người được giải phóng và hình thành xã hội công dân.
Công cụ của nhà nước là pháp luật, đối tượng là giá trị, phương
tiện là tài chính và nguồn lực là thuế. Từ nhà nước cai trị
chuyển thành nhà nước dịch vụ công việc của nhà nước là bảo vệ
luật pháp và cân bằng giá trị và hệ thống môi trường xã hội.
Từ nguyên tắc của cơ chế xã hội mới đa
phương hai chiều trực tiếp giữa các chủ thể xã hội dẫn đến sự phân
công và chuyên môn hóa xã hội lên một bước cao hơn. Như chúng ta biết,
ba trụ cột chính của một xã hội hiện đại và là ba lĩnh vực phát
triển, tác động tương hổ cho nhau của chất, lượng và cơ chế cấu trúc
là ba lĩnh vực khoa học, kinh tế, và chính trị. Đối với con người
là ba đội ngũ trí thức khoa học gia, doanh nhân và chính trị gia
chuyên nghiệp.
Ngoài lý do chuyên môn hóa thì ba lĩnh
vực này chúng tạo ra ba hệ thống giá trị khác biệt. Nếu không có
sự tách biệt chúng lập tức bị rối loạn, biến dạng và suy thoái như
bằng giả, tham nhũng hay độc quyền… xã hội sẽ xuất hiện một tầng
lớp không tạo ra lợi ích nhưng lại được thụ hưởng giá trị cao,
khoảng cách giàu, nghèo tăng lên, đạo đức và luật pháp rối loạn.
Điều tương tự cũng sẽ diễn ra đối với các chủ thể trong bộ máy nhà
nước giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một nguyên tắc bắt buộc của sự phát
triển là phải tự lập về mặt nhận thức và lý luận.
Năng lực tạo ra sự phát triển nhưng mức
độ phát triển năng lực lại là giới hạn cho sự phát triển. Trong bài
viết này chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi nhận thức để giới
thiệu về những gì mà những nước thành công đã tìm ra và áp dụng
cho con đường phát triển của chính họ. Với ba hình thức và phương
pháp chia sẻ tài nguyên là chia đều (mức lương tối thiểu, quỹ bảo
hiểm, an sinh xã hội…) chia công bằng (theo lợi ích kinh tế). Chia cân
bằng (chính phủ dùng luật và thuế để điều tiết và cân đối các khu
kinh tế). Kết quả của kinh tế thị trường là phổ cập hóa hệ thống môi
trường xã hội như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường lao
động, môi trường luật pháp, môi trường tiền vốn, môi trường khoa học,
môi trường kinh doanh… nó là hình đồng dạng bối cảnh của môi trường tự
nhiên của thế giới vật chất sinh học.
Nói theo cách nghĩ của Einstein, tất cả
phải được đặt trong một hệ phương trình duy nhất thì chúng tôi cho
rằng, quy luật tiến hóa sẽ không có hai cách giải và chỉ có một,
duy nhất một, trừ khi con người thay đổi được các hằng số tự nhiên.
Các nước Đông Á như Nhật, Singapore, Hàn…
đã nhìn thấy những yếu điểm của chính họ từ di sản của xã hội
phong kiến và lợi ích của mô hình phát triển từ những nước đi trước
và con đường quá dài để đuổi kịp mức độ và mặt bằng phát triển
chung, bởi sự trì trệ trong tư tưởng và văn hoá đông phương, nên họ
dùng chính sách ép buộc, tức dùng độc tài để áp đặt một thể chế
dân chủ và họ đã thành công, còn Việt Nam?
No comments:
Post a Comment