Nguyễn Quốc Tấn Trung -
Luật Khoa
04/07/2020
Ít có cuộc bầu cử nào
trên thế giới lại được chú ý và tốn giấy mực như cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ.
Từ các ứng cử viên, cơ chế bầu cử đại
cử tri đoàn, quá trình bỏ phiếu gay cấn ở các tiểu bang… luôn giúp cho người
ta hào hứng theo dõi cuộc tranh đua chức danh nhà nước quyền lực nhất thế giới.
Tuy nhiên, cũng giống như
hầu hết các vấn đề quản trị nhà nước khác của Hoa Kỳ, khó có thể hoàn thiện bức
tranh toàn cảnh của cuộc bầu cử mà không nói về những lần các bên liên quan phải
“đáo tụng đình”.
Là một quốc gia có truyền
thống tư pháp mạnh mẽ, nơi mà hầu hết các tranh chấp công dân – công dân; hay
công dân – nhà nước, đều được giải quyết bằng phán quyết của tòa, các tranh chấp
về bầu cử tổng thống cũng nổ ra khá thường xuyên, và đều được dàn xếp thông qua
các quyết định tư pháp.
Dưới đây là ba án lệ quan
trọng Luật Khoa muốn giới thiệu với bạn đọc, có thể giúp chúng ta hiểu rõ thêm
về vai trò của tư pháp và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ.
.
Bush v. Gore
(2000): Tiếng nói cuối cùng
Trong gần hai thập kỷ trở
lại đây, các luật gia nghiên cứu về Hoa Kỳ buộc phải nhắc đến vụ án Bush v. Gore.
Dù không hẳn tạo ra các nguyên tắc pháp lý tiền lệ đặc biệt quan trọng cho tiến
trình bầu cử, phán quyết một mặt chứng minh tầm ảnh hưởng bao trùm của Tối cao
Pháp viện lên mọi vấn đề chính trị quốc gia, một mặt thể hiện sự trân trọng của
tất cả các nhóm xã hội đối với Tối cao Pháp viện với tư cách là người quyết định
cuối cùng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng đầy tranh cãi hồi năm 2000.
Trong hoàn
cảnh thời điểm đó, cuộc bầu cử tổng thống ở tiểu bang Florida để lại
nhiều ngàn phiếu gây tranh cãi ở các quận như Miami-Dade và Palm Beach, có khả
năng quyết định lại toàn bộ 25 phiếu Đại cử tri của Florida, vốn đã được tuyên
bố là thuộc về ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, George W. Bush. Cụ thể hơn, số
phiếu này được máy đếm ra là các phiếu trắng, tức không ghi nhận bầu cho ai.
Theo các luật sư bảo vệ
quyền lợi cho ứng cử viên còn lại của Đảng Dân chủ, đương kiêm phó tổng thống
Albert Gore, đây là những phiếu bầu hợp pháp và chỉ không đếm được bởi những hạn
chế thiết kế của hệ thống đếm phiếu thẻ bằng máy. Theo họ, số lượng phiếu này cần
phải được đếm lại, bằng tay không. Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đồng
tình với lập luận của phía Albert Gore.
Phía ông Bush, đương
nhiên, không có lý do gì phải chấp nhận một rủi ro đáng giá 25 phiếu đại cử
tri, khẳng định rằng chúng đều là những phiếu không có giá trị về mặt pháp lý.
Do đó, việc đếm lại là không cần thiết.
Hai ứng cử viên G.
W. Bush và Al Gore tranh luận trên truyền hình năm 2000. Ảnh: Boston Global.
Câu hỏi mà đội ngũ luật
sư của ông Bush đặt ra cho Tối cao Pháp viện cũng vô cùng khéo léo:
“Việc Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đặt ra các
quy tắc bầu cử mới (ý chỉ luật tiểu bang và liên bang không có quy định đếm phiếu
bằng tay – ND) có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không? và
Việc đếm phiếu không quy chuẩn bằng tay có vi phạm
các điều khoản về bảo vệ bình đẳng (equal protection) và chuẩn mực pháp lý (due
process) hay không?”
Như vậy, thay vì để câu hỏi
ở trạng thái nguyên vẹn là “có nên kiểm phiếu bằng tay hay không?”, nay Pháp viện
phải xem xét liệu việc cho kiểm phiếu bằng tay có phải là đang đặt ra các quy tắc
pháp lý bầu cử mới hay không? Một góc nhìn hoàn toàn khác biệt, hợp lý, và có lợi
hơn cho ông Bush.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
nghiêng về các lập luận của đội ngũ luật sư của Bush, với 7/9 thẩm phán cho rằng
Pháp viện tiểu bang Florida đã vi hiến, và 5/9 thẩm phán cho rằng đếm phiếu bằng
tay mà không có quy chuẩn luật định vi phạm các nguyên tắc Equal Protection và
Due Process.
Việc đếm phiếu lại do đó
đã không thể diễn ra.
Nhờ phán quyết này, ông
Bush có đủ 25 phiếu đại cử tri của bang này, và cuối cùng là tổng cộng 271 phiếu
đại cử tri toàn quốc, dư đúng một phiếu để có thể trở thành tổng thống Hoa Kỳ.
Quan trọng hơn cả, theo Thẩm
phán Stephen G. Breyer, dù ông không đồng tình với kết quả cuối cùng, phản ứng
của các đảng phái cũng như dân chúng đối với phán quyết thể hiện sự tôn trọng rất
lớn của người dân dành cho tòa và hệ thống tư pháp quốc gia. Đó là những gì tốt
đẹp về nền pháp quyền và văn hóa pháp lý Hoa Kỳ.
.
Smith v. Allwright
(1944): Quyền bỏ phiếu nội bộ đảng
“Chế độ nô lệ sẽ không thật sự chấm dứt cho đến khi
người da đen có quyền bỏ phiếu”.
Đây là tuyên
bố nổi tiếng của Frederick Douglass vào tháng Năm năm 1865, sau khi
chính phủ Liên hiệp miền Bắc đạt được chiến thắng quyết định tại Appomattox
trong cuộc Nội chiến 1861 – 1865.
Lo ngại của Frederick
Douglass về tàn dư của chế độ nô lệ không thừa. Quá trình Tái thiết
(Reconstruction) Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến tại miền Nam được vận hành chủ yếu bởi
chính những người da trắng thua trận, vốn vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào chế
độ nô lệ và sự thấp kém của người Mỹ gốc Phi.
Dù vào nửa cuối thế kỷ
19, đã có nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ gốc Phi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ,
sự phân biệt đối xử ngầm dành cho người da đen vẫn tồn tại suốt nhiều thập
niên.
Một trong số đó, phải kể
đến việc Đảng Dân chủ (thời điểm này vẫn còn là chính đảng đại diện cho sự phân
biệt – định kiến) không cho phép cử tri da đen tham gia vào các kỳ bầu cử sơ bộ
bên trong nội bộ đảng. Căn cứ pháp lý là các đạo luật riêng rẽ ở từng tiểu
bang, ghi nhận rằng các chính đảng có quyền tự thiết lập nguyên tắc bầu bán
riêng của mình trong các cuộc bầu cử nội bộ.
Như vậy, dù quyền bầu cử
trên toàn quốc dành cho người Mỹ gốc Phi đã được công nhận và thi hành trên thực
tế, họ vẫn có khả năng bị loại ra khỏi quá trình đóng góp tiếng nói trong việc
quyết định ứng viên bên trong từng đảng. Nói cách khác, anh có quyền đi bầu
trong các cuộc tổng tuyển cử; nhưng việc chọn ra ứng cử viên là ai thì anh
không có quyền tham gia.
Cử tri da đen đòi quyền bỏ phiếu ở Mỹ. Ảnh:
crmvet.org.
Mãi đến năm 1923,
Lonnie E. Smith, một cử tri da đen thuộc quận Harris, Texas, khởi kiện đảng bộ
Đảng Dân chủ tiểu bang Texas vì quy định rằng chỉ có các công dân da trắng mới
được bỏ phiếu cho kỳ bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng này.
Để trả lời câu hỏi hành
vi loại trừ quyền bầu cử của công dân dựa trên màu da, sắc tộc của các tổ chức
chính trị, tổ chức tư nhân có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không, Tối cao Pháp
viện lập
luận:
“Hoa Kỳ là một nền dân chủ lập hiến. Từng tế bào của
hệ thống pháp luật chúng ta bảo đảm cho mọi công dân quyền được tham gia vào
quá trình lựa chọn các chức vụ công quyền mà không gặp bất kỳ cản trở nào vì
màu da của họ. Nếu chính quyền tiểu bang có thể đơn giản tước bỏ quyền công dân
quan trọng này bằng cách trao lại thẩm quyền cho một tổ chức tư nhân nhằm thực
hiện hành vi phân biệt chủng tộc ngay cả trước khi cuộc bầu cử chính thức diễn
ra, các quyền hiến định sẽ không còn bao nhiêu ý nghĩa nữa”.
Không chỉ vậy, Pháp viện
còn nhấn mạnh vai trò của các chính đảng trong việc lựa chọn ra ứng viên để được
tham gia vào cuộc tổng tuyển cử toàn quốc hay toàn tiểu bang không còn đơn thuần
là một tổ chức tư nhân, mà là đang thực hiện chức năng nối dài của chính quyền.
Phán quyết chính thức xóa
bỏ hệ thống bầu cử nội bộ phân biệt đối xử của các chính đảng, mà cụ thể ở đây
là Đảng Dân chủ, từ đó khởi nguồn cho các biến chuyển, cải cách mạnh mẽ diễn ra
bên trong từng đảng cho đến ngày nay.
.
Buckley v. Valeo
(1976): Kiện cơ quan lập pháp vì pháp luật kiểm soát tài chính bầu cử
Dưới nhiều góc độ, Buckey v Valeo là một
trong những án lệ dài nhất trong lịch sử xét xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, với
nhiều kết luận tư pháp cuối cùng được đưa ra nhất. Đây là bản án định hình nên
cách thức mà chính phủ liên bang lẫn tiểu bang Hoa Kỳ hiện nay đang tiếp cận với
tiêu chuẩn minh bạch và kiểm soát đóng góp tài chính cho hoạt động tranh cử của
các ứng cử viên.
Về bối cảnh lịch sử, lưỡng
viện Hoa Kỳ quyết định đặt ra các định mức đóng góp tài chính cá nhân và nhiều
quy định pháp luật khác cho hoạt động tranh cử sau vụ bê bối Watergate lịch sử
đầu thập niên 1970. Một số đạo luật như Đạo luật Vận động Tranh cử Liên bang
(Federal Election Campaign Act 1971) cùng những điều khoản cũ trong Bộ luật Thuế
(Internal Revenue Code 1954), được ban hành hoặc sử dụng nhằm ngăn chặn khả
năng chi phối các chính trị gia, nguy cơ tham nhũng và tính liêm chính của các
cuộc bầu cử liên bang.
Đáng chú ý có thể kể đến
việc đặt giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân cho một chương trình vận
động tranh cử, hay đặt ra nghĩa vụ báo cáo tài chính cho các tổ chức nếu khoản
đóng góp của họ cho chương trình tranh cử vượt quá một con số do luật xác định.
Kèm theo đó, Ủy ban Bầu cử
Liên bang (Federal Election Commission – FEC) cũng được thành lập để đảm bảo việc
vận hành những yêu cầu kiểm soát ngặt nghèo mới về vấn đề tài chính này.
Dù vừa nhìn qua, đây đều
là những quy định rất cần thiết để bảo vệ sự công bằng, minh bạch và liêm chính
của một cuộc bầu cử, người Mỹ không đơn giản chấp nhận nó mà không có một cuộc
đấu pháp lý sòng phẳng.
James Buckley (phải)
trong đêm bầu cử ở New York, 3/11/1970. Ảnh: National Review.
Trong vụ án, James L. Buckley
– nguyên đơn – là người thuộc đảng Bảo thủ (Conservative Party), một đảng nhỏ
buộc phải phản đối các giới hạn tài chính vì nó làm giảm năng lực cạnh tranh của
đảng này với các đảng phái lâu đời như Cộng hòa hay Dân chủ. Bị đơn, Francis R.
Valeo, là Thư ký và đại diện cho Thượng viện Hoa Kỳ trước tòa.
Sau hơn ba tháng tranh luận
và cân nhắc, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đưa ra hàng loạt các kết luận và
lý giải đi kèm, với 7/9 phiếu đồng thuận từ các thẩm phán. Phán quyết có thể được
tạm rút gọn những điểm quan trọng như sau:
·
Đối với giới hạn đóng góp
tài chính của từng cá nhân dành cho một ứng cử viên, một cuộc vận động tranh cử
nhất định, tổng chi của cá nhân cho tất cả các cuộc tranh cử trong một năm tài
chính, cùng theo đó là các yêu cầu về tiết lộ và minh bạch thông tin người đóng
góp, Pháp viện cho rằng đây là những công cụ pháp lý cần thiết nhằm chống lại
thực trạng các ứng cử viên của các chức danh nhà nước quan trọng có thể bị lệ thuộc
vào các mạnh thường quân lớn.
Các giới hạn và biện pháp
đặt ra, theo Pháp viện, vừa bảo vệ được lợi ích của một nhà nước chính trực,
minh bạch, song cũng không làm ảnh hưởng quá nhiều đến quyền tự do biểu đạt của
công dân.
·
Ngược lại, đối với việc đặt
ra giới hạn chi tiêu tranh cử của các ứng viên, đặt ra trần được phép sử dụng từ
các nguồn quỹ thuộc sở hữu chính ứng viên đó, gia đình ứng viên hay của toàn bộ
chiến dịch tranh cử… tạo nên hạn chế trực tiếp, xâm phạm lên quyền tự do biểu đạt
được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất. Tương tự như vậy, một cá nhân độc lập
chi tiền để quảng bá cho hình ảnh và thông điệp chính trị của một ứng cử viên
cũng được xem là hình thức ngôn luận được bảo vệ.
Những hạn chế này sẽ giới
hạn năng lực của ứng viên, công dân và các tổ chức xã hội có thể tham gia vào
các hoạt động được bảo vệ như biểu đạt và tuyên truyền các thông điệp chính trị
bằng các buổi mít-tinh, gặp mặt, đại nhạc hội, quảng cáo và các hoạt động công
cộng khác.
Nói cách khác, theo các
thẩm phán, chi tiền trong tranh cử đồng nghĩa với việc thực hiện quyền nói của
mình. Hạn chế việc chi tiền đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do ngôn luận về
mặt định lượng (quantity).
·
Cuối cùng, cùng với các kết
luận khác, Tối cao Pháp viện cũng đồng thời khẳng định thẩm quyền bổ nhiệm các
chức danh của Ủy ban Bầu cử Liên bang được trao trực tiếp cho các thành viên
Nghị viên là vi
phạm nguyên tắc tam quyền phân lập mà Hoa Kỳ theo đuổi từ thời kỳ lập
quốc.
Tất cả các chức danh
trong nhóm Nhân viên Liên bang Hoa Kỳ (“Officers of the United States”) cần phải
do Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và bổ nhiệm, với ý kiến và sự chuẩn thuận từ Thượng
viện.
No comments:
Post a Comment