Vũ Ngọc
Phương -
Nghiên cứu lịch
sử
24/06/2020
Đã có nhiều phân tích, bình luận, nghi ngờ về sự Chính phủ Campuchia cho phép
các Công ty Trung Quốc thực hiện đầu tư tại Campuchia xây dựng một số đại điểm
có vị trí quân sự và khai thác Dầu Khí tại Lô A, Vịnh Thái Lan. Nghi ngờ như vậy
là xuất phát từ chiến lược lâu đời của Trung Quốc lôi kéo Campuchia vào quỹ đạo
Trung Quốc nhằm phân hóa, thôn tính ba nước Đông Dương tiến tới thống trị toàn
bộ ASEAN. Để sự phân tích có khoa học lozic, chúng ta cần dẫn giải khái quát một
số vấn đề về Campuchia để bình luận chiến lược của Trung Quốc đối với khu vực
ASEAN và Việt Nam.
1.- Vị trí Địa – Chính trị của
Campuchia:
1/ Vương quốc Campuchia, còn gọi là Cao
Miên hay Cam Bốt (theo tiếng Pháp: Cambodge,
hay tiếng Anh: Cambodia), là một quốc gia nằm
trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á.
Campuchia giáp với vịnh
Thái Lan ở phía tây nam, Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở
phía đông bắc, phía đông là Việt Nam. Số liệu thống kê năm 2019, Campuchia
có 16 triệu người. Ngôn ngữ chính thức của Campuchia là tiếng
Khmer, là ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam
Á. Tên gọi Campuchia bắt nguồn từ tên gọi “Kambuja” của vương quốc ra
đời năm 802, do vua Jayavarman II lập sau khi hợp nhất các hoàng
tử Khmer của vương quốc Chenla đang gây chiến với nhau.
Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là Chân Lạp (chữ Hán: 真臘), Cao Miên (高棉), hoặc Cao Man. Diện tích Campuchia khoảng 181.035 km², nằm trọn vẹn
trong khu vực nhiệt đới; từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 15N kinh độ 102 đến 108E. Đất nước
có 800 km biên giới với Thái Lan về phía bắc và phía tây, 541 km biên giới với
Lào về phía đông bắc, và 1.137 km biên giới với Việt Nam về phía đông và đông
nam. Nước này có 443 km bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan. Campuchia là quốc gia
thuần nhất về dân cư với hơn 90% dân số là người Khmer nói tiếng Khmer, là ngôn
ngữ chính thức. Số còn lại là người Việt, người Campuchia gốc Hoa, người Chàm
và người Thượng sống tập trung ở miền núi phía bắc và đông bắc. Phật giáo
Theravada hay còn gọi là Phật giáo nguyên thủy bị Khmer Đỏ hủy diệt đã được phục
hồi là tôn giáo chính thức, với khoảng 95% dân số. Phật giáo Đại thừa Bắc tông
chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Việt và người Hoa. Hồi giáo và đạo Bà
la môn ở các cộng đồng Chăm, Ki-tô giáo chiếm khoảng 2% dân số. Tiếng Pháp và
tiếng Anh được nhiều người Campuchia sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai và thông
thường là ngôn ngữ phải học trong các trường phổ thông và đại học. Nó cũng được
sử dụng thường xuyên trong chính quyền. Một số lớn trí thức mới của Camphuchia
được đào tạo tại Việt Nam là một thuận lợi cho quan hệ kính tế, văn hóa ba nước
Đông Dương. Tiếng Việt được sử dụng nhiều ở khu vực biên giới Việt Nam –
Campuchia và vùng Biển Hồ vì có nhiều người Khmer gốc Việt sinh sống. Người
Campuchia ở vùng phía Đông tiếp giáp Việt Nam cũng dùng tiếng Việt để giao tiếp
sinh hoạt, giao thương với người Việt. Cuộc nội chiến và nạn diệt chủng dưới thời
Khmer Đỏ có ảnh hưởng mạnh đến cấu trúc dân số Campuchia. Độ tuổi trung bình là
20,6, với hơn 50% dân cư trẻ hơn 25 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 0.95, thấp nhất trong
số các quốc gia tiểu khu vực sông Mê Kông. Trong số người Campuchia độ tuổi hơn
65, tỷ lệ nữ/nam là 1,6:1.
Khmer Đỏ (ខ្មែរក្រហម) (tiếng Pháp: Khmer Rouge, sau này được những
người nói tiếng Anh chấp nhận ), tên chính thức là Đảng Campuchia Dân chủ, là một
tổ chức chính trị cầm quyền tại Campuchia từ 1975 đến 1979 do nguyên thủ
Campuchia lúc đó là Norodom Sihanouk đặt. Tổ chức này còn được biết với các tên
Đảng Cộng sản Khmer, Quân đội Nhân dân Campuchia Dân chủ.. Nó được dùng để chỉ
một sự tiếp nối của các Đảng Cộng sản tại Campuchia, từ Đảng Nhân dân Cách mạng
Khmer (KPRP) (1951 – 1963) phát triển lên thành Đảng Công nhân Campuchia (1963
– 1970) rồi thành Đảng Cộng sản Kampuchea (CPK năm1971 – 1981) và sau này thành
lập nhà nước Kampuchea Dân chủ. Tổ chức này còn được gọi là Đảng Cộng sản
Khmer. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ hầu như không thay đổi từ thập niên 1960 tới giữa
những năm 1990. Thành phần lãnh đạo hầu hết xuất thân từ những gia đình trung
lưu và đã được giáo dục tại các trường Đại học Pháp. Trước đó ở Campuchia tồn tại
một số nhóm Khmer khác chiếm giữ Đông Bắc, Tây Nam và Đông Campuchia. Tháng
6/1978, nhóm miền Đông cũng bị tiêu diệt sau những cuộc khởi nghĩa quân sự chống
Pol Pot thất bại. Chỉ còn một số ít sống sót, trong đó có Heng Samrin chạy sang
Việt Nam sau này sẽ trở thành lãnh đạo của Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Nhóm Pol Pot, Khieu Samphan thể hiện tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan
khi nhấn mạnh sự vượt trội của người Khmer so với các tộc người khác.Pol Pot
nuôi tham vọng khôi phục lại đế chế Khmer cổ đại đã từng xâm chiếm nhiều vùng đất
rộng lớn ở Đông Dương. Với vỏ bọc chủ nghĩa cộng sản để tận diệt những người cộng
sản Campuchia, sử dụng ngôn ngữ cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng lại phá hoại
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đến năm 1981, Khmer Đỏ đã chính thức
tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa cộng sản đổi tên từ Đảng Cộng sản Campuchia thành Đảng
Campuchia Dân chủ. Từ lâu trong lịch sử , các triều đại Trung Quốc từng lợi dụng
một số vấn đề dân tộc bất hòa của Khmer với Việt Nam để viện trợ, mua chuộc,
lôi kéo sử dụng Campuchia trở thành lực lượng đánh phá Việt Nam từ phía Tây
Nam.
Từ năm 1972, Khmer Đỏ do Pol Pot, IEngsari (Khmer gốc Hoa) lãnh đạo,
thân nhà cầm quyền Bắc Kinh, được Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, ngày 17
tháng 4 năm 1975 Khmer Đỏ đã chiếm Phnom Penh cướp được chính quyền . Tháng 10
năm 1974, Khmer Đỏ bắt đầu đuổi toàn dân ra khỏi thành thị về các vùng nông
thôn thực hiện thanh lọc xã hội và lao động khổ sai. Năm 1975, Khmer Đỏ thành lập
nước Campuchia Dân chủ. Khmer Đỏ bãi bỏ toàn bộ tiền tệ, giáo dục, y tế tại
Campuchia. Khmer Đỏ thực hiện triệt để chính sách “Tự cung Tự cấp” – bài phương
Tây” và “Quyết tâm xây dựng Xã hội chủ nghĩa trong vòng 6 tháng”. Để thực hiện
chính sách này, Khmer Đỏ thực hiện chính sách tàn bạo bằng tra tấn, giết chính
người Dân Khmer bằng những phương thức cực kỳ man rợ.
Pol Pot, IEngsari, Khieu Samphan giành được quyền lực đã tập
trung xây dựng một xã hội cộng sản thuần túy nông nghiệp. Trong suốt thời gian
cầm quyền, Khmer Đỏ đã xây dựng xã hội theo mô hình “Công xã nhân dân” của Mao
Trạch Đông ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cùng với khẩu hiệu “thanh lọc dân tộc”
thực hiện cuộc phân loại, tàn sát người Campuchia. Khieu Samphan là tiến sĩ
kinh tế đồng thời là nhà tư tưởng của Khmer Đỏ, cho rằng cách mạng phải do giai
cấp nông dân lãnh đạo.Để thanh lọc xã hội cần hành quyết hàng loạt người không
thích hợp, buộc làm việc quá sức rồi chết vì ốm yếu và đói khát. Khmer Đỏ được
nhiều học giả thế giới đánh giá là một trong những chế độ tàn bạo nhất trong thế
kỷ 20. Nếu tính theo tỷ lệ người bị giết so sánh với dân số, có thể nó là chế độ
giết người nhiều nhất trong thế kỷ XX. Những khẩu hiệu triết lý nổi tiếng của
Khmer Đỏ xây dựng một Dân tộc Mới là: “Giữ mày cũng không có lợi. Giết mày cũng
chẳng thiệt gì”. Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Campuchia – Khmer Đỏ ngày 15 tháng 10 năm 1975 quyết định: “Đường lối di dân của
chúng ta là quan trọng nhất sau ngày 17-4-1975. Làm việc này, chúng ta thủ tiêu
được mọi lực lượng chống đối, làm chủ đất nước 100%”. Thời kỳ đầu Khmer Đỏ cầm
quyền, dân số Campuchia khoảng 7,100,000 người. Sau mười năm đã có 3,300,000
người (gồm cả nam giới, phụ nữ, trẻ em và người nước ngoài) bị giết hại. Khmer
Đỏ thanh trừng nội bộ tàn sát tất cả những người thân Liên Xô và Việt Nam. Trẻ
em bị tập trung, cách ly khỏi bố mẹ đào tạo thành “Công cụ chuyên chính của đảng
” làm nhiệm vụ tra tấn và hành quyết. Tất cả những người không phải là nông
dân, người Khmer ở vùng phía Đông, người gốc Việt, gốc Hoa, gốc Thái và các dân
tộc không phải Khmer,… đều bị hành quyết. Tất cả các tu sỹ tôn giáo, các nhà thờ,
chùa bị phá hủy hoàn toàn. Khmer Đỏ buộc các tín đồ Hồi giáo phải ăn thịt lợn,
thứ họ kiêng (ḥarām). Những người không thực hiện bị giết hại. Đây là chính sách đã được
thực hiện ở Trung Quốc thời Mao Trạch Đông, nơi những tín đồ Hồi giáo bị buộc
phải nuôi lợn.
Ngôn ngữ Khmer cũng bị
chuyển đổi. Khmer Đỏ phát minh ra những thuật ngữ mới. Mọi người được tuyên
truyền để “tạo ra” (lot dam) một nhân vật cách mạng mới, là “những công cụ” (ឧបករណ៍; opokar) của cơ quan cầm quyền được gọi là “Angkar” (អង្គការ, “Tổ chức”), và việc lưu luyến với những thời kỳ tiền cách mạng (chheu
satek arom, hay “ký ức bệnh hoạn”) có thể dẫn tới việc bị hành quyết. Tương tự,
những thuật ngữ nông thôn như Mae (ម៉ែ; mẹ) bị thay thế bằng những
thuật ngữ như Mak (ម៉ាក់; mẹ). Tiếng Khmer có một hệ thống sử dụng phức
tạp để định nghĩa vị thế và cấp bậc của người nói. Trong thời cai trị của Khmer
Đỏ, việc sử dụng chúng bị bãi bỏ. Mọi người được khuyến khích gọi nhau là “bạn”
hay “đồng chí” (មិត្ត; mitt), và tránh những dấu hiệu tôn trọng
theo truyền thống như cúi mình hay khoanh tay chào, được gọi là samphea.
Mặt khác, theo sự xúi giục của Trung Quốc, từ tháng 6/1976, Khmer Đỏ đã
tấn công trên toàn tuyến biên giới Campuchia – Việt Nam. Khmer Đỏ đã vào sâu
lãnh thổ Việt Nam triệt phá làng mạc, tàn sát dân Việt. Ngày 20/6/1977, Khmer Đỏ
tiến hành thanh trừng nội bộ, Hun Sen và các cán bộ tiểu đoàn của ông đã trốn
sang Việt Nam. Sau đó Hun Sen trở thành một trong những người lãnh đạo quân đội
và chính phủ nổi dậy chống lại Khmer Đỏ. Sau khi Mặt trận Dân tộc thống nhất Cứu
quốc Campuchia thành lập đã không đủ lực lượng đánh tiêu diệt Khmer Đỏ. Vì vậy
ngày 07/01/1979 Mặt trận Dân tộc thống nhất Cứu quốc Campuchia đã chính thức
yêu cầu Việt Nam tấn công sang Campuchia lật đổ tiêu diệt chế độ diệt chủng
Khmer Đỏ và truy diệt tàn quân Khmer Đỏ đến sát biên giới phía Tây Campuchia –
Thái Lan
Tính từ tháng 6/1976 đến
tháng 9/1989 trong 13 năm nhân dân Việt Nam, quân đội Nhân dân Việt Nam đã
bị Khmer Đỏ phục kích gây thiệt hại khá lớn với tỷ lệ thương vong trung bình của
Quân đội Nhân dân Việt Nam lên đến 12%, trong khi Chiến tranh với Mỹ và tại Lào
tỷ lệ thương vong trong một trận chiến của Quân đội Nhân Dân Việt Nam là từ 6%
~ 7%. Sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia
năm 1989 và được Liên Hiệp Quốc hỗ trợ bầu cử năm 1993
giúp cho nước này khôi phục lại tình trạng bình thường. Tháng 6 năm 2003, Liên
hợp quốc và Chính phủ Campuchia đạt được thỏa thuận về việc xét xử các thủ lĩnh
Khmer Đỏ. Tuy nhiên, việc xét xử Khmer Đỏ diễn ra hết sức chậm chạp do Trung Quốc
đã nâng đỡ Khmer Đỏ trước đây cản trở. Phần lớn các nhân vật quan trọng của tổ
chức này đã chết già mà không bị tòa kết án. Mãi đến cuối năm 2008, phiên tòa đầu
tiên xét xử các thủ lĩnh Khmer Đỏ mới được mở.
2.- Nhà nước Campuchia:
Vương quốc Campuchia hiện là một nước Quân chủ lập Hiến theo hình thức Quân
chủ tuyển cử.Thực tế Quốc vương không điều hành đất nước. Quốc vương được lựa
chọn bởi một Hội đồng Ngai vàng Hoàng gia gồm 9 người theo Hiến pháp.
Quốc vương đầu tiên Norodom Sihanouk sau khi ông trở lại làm vua vào
tháng 9 năm 1993. Cuối tháng 10 năm 2004, Quốc vương Norodom
Sihanouk thoái vị làm Thái thượng Vương. Hội đồng Ngai vàng Hoàng
gia đã bầu Thái tử Norodom Sihamoni lên làm Tân Quốc
vương.Từ năm 1993 đến nay, Campuchia đã trải qua 4 lần tổng tuyển cử. Ở lần tổng
tuyển cử thứ 4 năm 2008, Đảng CPP dù chiếm đa số, nhưng không thể tự mình thành
lập chính phủ do không giành được tỷ lệ đa số ghế 2/3 cần thiết theo luật định.
Chính vì vậy, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia – CPP buộc phải tìm kiếm liên
minh từ FUNCINPEC. Sau 15 năm tái lập chế độ quân chủ lập hiến, Vương quốc
Campuchia đã thu dược nhiều thành tựu lớn trên các lĩnh vực phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội và quan hệ đối ngoại.
Campuchia mở cửa với thế giới, gia nhập WTO. Tuy vậy, kinh tế và đời sống
vẫn phát triển chậm. Đến năm 2003, GDP có 3.677 triệu USD, GDP bình quân đầu
người 280 USD (2003). Trên 30% dân chúng sống dưới mức nghèo khổ. Một phần do
điểm xuất phát từ một Quốc gia – Dân tộc bị Chính quyền Khmer Đỏ tàn phá, hủy
diệt, một phần do quyền lực thực tế của chính quyền chưa củng cố, hoàn thiện.
3.- Tôn giáo Campuchia:
Có hơn 95% dân số Khmer
theo Phật giáo Nguyên thủy (Nam tông). Đây là tôn giáo chính thống của
Campuchia. Hiện có khoảng 4.392 đền thờ, tu viện trong cả nước.
Các Tôn giáo ở Campuchia, trong đó có Phật giáo, đã bị đàn áp, giết hại bởi chế
độ Khmer Đỏ. Tôn giáo, trong đó có Phật giáo được hồi sinh khi chế độ
Khmer Đỏ bị lật đổ. Hồi giáo Sunni là tôn giáo của khoảng 250,000 người
Chăm và người Mã Lai thiểu số ở Campuchia tập trung ở tỉnh
Kampong Cham. 1% dân số Campuchia được xác định 20.000 người
theo Công giáo Roma tạo thành nhóm lớn nhất, sau đó là cộng đồng Tin
Lành. Phật giáo Đại thừa (Bắc tong) là tôn giáo của đa số Hoa kiều và Việt
kiều tại Campuchia nhưng có tỷ lệ nhỏ.
4.- Nhân vật:
Hun Sen, tên kèm danh hiệu đầy đủ là Samdech Akeakmohasenapadey Decho
Hun Sen, bí danh tiếng Việt là Mai Phúc, sinh ngày 4 tháng
4 năm 1951 Tên khai sinh của ông là Hun Bunal, ông đổi tên thành Hun
Sen vào năm 1972 sau hai năm gia nhập Khmer Đỏ. Cha của ông, Hun
Neang, là một nhà sư tại Wat ở tỉnh Kampong Cham trước khi tham gia kháng chiến
chống Pháp và kết hôn với mẹ của Hun Sen, Dee Yon, vào những năm 1940. Ông bà nội
của Hun Neang là những chủ đất giàu có người Triều Châu Trung Quốc. Ông là
Thủ tướng đương nhiệm của Vương quốc Campuchia. Ông cũng là người lãnh đạo
cấp cao của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) – Đảng lãnh đạo Campuchia
trong một chính phủ liên hiệp với Đảng bảo hoàng Funcinpec kể từ khi
Campuchia khôi phục chế độ đa đảng năm 1993. Ngày 23 tháng 12 năm
2009, Vua Norodom Sihamoni thăng quân hàm Thống tướng cho
Hunsen cùng với các ông Heng Samrin và Chea Sim .
Từ năm 1997, Hun Sen đã lãnh đạo CPP liên tiếp giành chiến thắng và hiện là Thủ
tướng Campuchia trong nhiệm kỳ Thủ tướng thứ năm của ông. Tháng 1 năm 1985, Hun
Sen trở thành Thủ tướng khi 32 tuổi – Thủ tướng trẻ nhất thế giới. Tạp chí The
Sydney Morning Herald viết Hunsen là một “Người điều hành gian ác, đã
tiêu diệt các đối thủ chính trị”. Hun Sen đã tập trung quyền lực cao độ ở
Campuchia và xây dựng một lực lượng bảo vệ Hunsen có sức mạnh cạnh tranh với
quân đội chính quy Campuchia làm cho các nỗ lực đảo chính hầu như không thể thực
hiện được. Khi là Bộ trưởng Ngoại giao và sau đó là Thủ tướng, Hun Sen đóng vai
trò nòng cốt trong Đàm phán hòa bình Paris năm 1991, mà đã đưa đến hòa
bình ở Campuchia.
Từ năm 1993 đến nay, tình hình chính trị của Campuchia thường sẩy ra biến động.
Hunsen giữ chức vụ Thủ tướng cho đến cuộc bầu cử do Liên Hợp Quốc bảo trợ
năm 1993, kết quả là một quốc hội treo. Sau các cuộc đàm phán phức tạp với FUNCINPEC,
Hun Sen đã được chấp nhận làm Thủ tướng thứ hai, Norodom Ranariddh làm Thủ
tướng thứ nhất. Năm 1997, liên minh tan vỡ bởi bất đồng giữa Ranariddh và Hun
Sen. FUNCINPEC đã thảo luận với các phiến quân Khmer Đỏ và với các
bên đã liên minh trước đó để chống lại chính phủ Hun Sen lúc đó được
Việt Nam hậu thuẫn trong những năm 1980. Đảo chính năm 1997 phế truất Ranariddh
đưa Ung Hout giữ chức Thủ tướng thứ nhất, Hunsen vẫn là Thủ tướng thứ hai. Bầu
cử năm 1998 đưa Hunsen thành Thủ tướng quốc gia duy nhất. Cuộc bầu cử gây tranh
cãi tháng 7 năm 2003 đã đưa CPP có đa số lớn trong Quốc hội Campuchia, nhưng
CPP không đủ 2/3 để CPP có thể tự thành lập một chính phủ mới. Vì vậy liên minh
CPP-FUNCINPEC mới được thành lập vào giữa năm 2004, với Norodom
Ranariddh được chọn làm người đứng đầu Quốc hội và Hun Sen vẫn Thủ tướng
duy nhất.
Ngày
19/8/2013, tại New York, người Campuchia và các nhà sư Phật giáo tổ chức một cuộc
biểu tình lớn trước trụ sở Liên Hợp Quốc (LHQ). Sau đó tại Phnôm Pênh,
Campuchia đã diễn ra các cuộc biểu tình lớn ở sau đó vào tháng 9 năm 2013 chống
Hunsen. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2013, hàng chục ngàn người Campuchia, cùng với
các nhà sư và nhóm đối lập Phật giáo, bao gồm Đảng Cứu quốc Campuchia của Sam
Rainsy đã tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ ở Phnôm Pênh để phản đối kết quả bầu
cử ngày 28 tháng 7 mà họ cho là gian lận. Ngày 3 tháng 1 năm 2014, cảnh sát
Chính phủ Hunsen đã nổ súng vào người biểu tình, giết chết 4 người và làm bị
thương hơn 20. Liên Hợp Quốc và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên án hành vi bạo lực
này. Tháng 11 năm 2016, Hun Sen công khai ủng hộ ứng cử viên tổng thống của đảng
Cộng hòa Hoa Kỳ Donald Trump được bầu làm tổng thống.
Ngày 31/1/2017, Hun Sen ra lệnh cho Quốc hội đã bỏ phiếu bãi bỏ các vị trí Lãnh
đạo thiểu số và Thủ lĩnh đa số để giảm bớt ảnh hưởng của đảng đối lập. Từ
ngày 2/ 2/2017, Hun Sen không cho phe đối lập được chất vấn bộ trưởng chính phủ,
Hun Sen tuyên bố sửa đổi hiến pháp làm cho Đảng Cứu quốc
Campuchia đối lập bị giải tán. Luật gây tranh cãi này được thông qua vào
ngày 20 tháng 2 năm 2017, trao cho Đảng cầm quyền quyền được giải tán các đảng
chính trị. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2018, vài tuần trước cuộc bầu cử Quốc hội,
Hun Sen đã đưa con trai lớn thứ hai là Hun Manet vào chỉ huy quân sự cao hơn,
chuẩn bị cho con trai lên làm Thủ tướng khi Hunsen nghỉ hưu hoặc qua đời.
Hunsen cho tiến hành các chiến dịch thông tin xây dựng hình ảnh cho con trai
sinh ra là một Siêu nhân, Thần thánh.
Hình :
Ngoài ông Dy Vichea, một
số thành viên trong gia đình của Thủ tướng Hun Sen cũng giữ những vị trí quan
trọng hoặc có liên quan. Như cháu gái của ông Hun Sen đã kết hôn với cảnh sát
trưởng quốc gia Campuchia Neth Savoeun. Hun Mana con gái ông Hun Sen, , đứng đầu
tờ báo Kampuchea Thmey Daily và đài Bayon, đồng thời nắm giữ hơn 12 công ty
quan trọng.
5.- Chính sách thân Trung Quốc:
Chính phủ Hunsen thực hiện chính sách đa phương quan hệ quốc tế để phân tán
thông tin, nhưng các quan hệ chính là thân Trung Quốc. Có nhiều viện trợ không
hoàn lại hoặc ưu đãi cho Campuchia làm dư luận quốc tế nghi ngờ Trung Quốc định
xây dựng Campuchia thành căn cứ quân sự tiền đồn của Trung Quốc tại bán đảo
Đông Dương. Lịch sử cho thấy chiến lược truyền thống của Campuchia là thân Trung
Quốc để kiếm lợi và gây sức ép với Việt Nam. Chỉ xét nửa cuối thế kỷ XX, Quốc
vương Sihanouk lợi dụng Trung Quốc những năm 1950, 1960 để thúc đẩy tính trung
lập, và kiếm lợi an toàn lưu vong tại Trung Quốc. Ngày 20/10/2019, báo Khmer
Times cho biết chính phủ Hunsen đã ký tại Bắc Kinh giữa Bộ trưởng Quốc phòng
Campuchia Tea Banh và Bộ Trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa để Bắc
Kinh sẽ viện trợ 600 triệu nhân dân tệ (hơn 84,8 triệu USD) để hỗ trợ Bộ Quốc
phòng Campuchia tăng cường lực lượng quân sự. Tướng Ngụy Phượng Hòa nhấn mạnh “Hợp
tác giữa quân đội hai nước rất chặt chẽ, đạt được những thành tựu quan trọng.
Đây là cơ chế giúp thúc đẩy mối quan hệ giữa Trung Quốc và Campuchia.Trung Quốc
và Campuchia là những người bạn chí cốt, và Bắc Kinh cam kết cung cấp viện trợ
và hỗ trợ để phát triển lĩnh vực quân sự của Campuchia”. Đáp lại, ông Tea
Banh nói rằng, mối quan hệ giữa hai nước đã phát triển trong những năm qua và
được củng cố hơn nữa dưới thời Thủ tướng Hun Sen. Trung Quốc là nước viện trợ lớn
nhất cho Campuchia trong những năm gần đây. Đầu năm 2019, Trung Quốc đồng
ý viện trợ 4 tỷ nhân dân tệ (588 triệu USD) cho nước này trong giai đoạn
2019-2021.
Ngày 18/6/2020, Trung tướng,
Chỉ huy Lục quân hoàng gia Campuchia Hun Manet nhấn mạnh chính phủ nước này đã
mua gần 300 xe tải quân sự của Trung Quốc mà không sử dụng “một riel nào” từ
ngân sách nhà nước. Tổng cộng 290 xe tải quân sự đã được vận chuyển đến
Campuchia trên chuyến hàng cập cảng Sihanoukville vào giữa tháng 6. Lô xe đã được
bàn giao cho các đơn vị Lực lượng vũ trang hoàng gia (RCAF) và Cảnh sát quốc
gia Campuchia.
Phát biểu trong nghi thức
bàn giao diễn ra tại sân vận động Olympic thủ đô Phnom Penh, tướng Hun Manet –
Phó tổng tư lệnh RCAF – nói lô xe quân sự được mua về để củng cố lực lượng và
phục vụ người dân, cùng các lợi ích quốc gia của Campuchia. Theo ông Manet, số
xe được mua bằng tiền gây quỹ do Thủ tướng Hun Sen phát động, với sự
đóng góp từ các doanh nghiệp và người dân Campuchia.
Trung tướng Manet đồng thời
đáp trả những ý kiến chỉ trích thương vụ mua xe quân sự. “Các nước khác chi
hàng triệu USD để hiện đại hóa vũ khí, vậy mà họ công kích chúng ta khi ta mới
chỉ có xe quân sự mới,” ông nói, bổ sung rằng các xe quân sự cũng có thể được
sử dụng trong những tình huống khẩn cấp như bất ổn xã hội
Trong giai đoạn năm 2013-2017, Trung Quốc đã đầu tư 5,3 tỉ USD vào Campuchia. Đặc
biệt là thành phố Sihanoukville biến thành một trung tâm giải trí do công ty
Trung Quốc xây dựng.Tháng 8/2019, một sĩ quan cấp cao của Bộ Tư lệnh Ấn Độ –
Thái Bình Dương Hoa Kỳ thông tin Trung Quốc có kế hoạch xây dựng các cơ sở hải
quân ở bờ biển phía nam của Campuchia vào năm 2020. Chính quyền Hunsen đã cho
Trung Quốc đầu tư kinh tế trị giá 3,7 tỉ USD trên phạm vi 360km2 thuê 99 năm
vùng Dara Sakor , nơi mà hiện nay có nhiều quân đội Trung Quốc. Ngày
30/07/2019, Hãng tin Channel News Asia cho biết Campuchia đã ký các thương vụ
vũ khí với Bắc Kinh được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Phnom Penh bác bỏ một thỏa
thuận bí mật cho phép tàu chiến Trung Quốc sử dụng căn cứ hải quân của
Campuchia. Thủ tướng Hun Sen ngày 29/7/2020 cho biết nước ông đã mua vũ khí từ Trung Quốc nhằm
hiện đại hóa các lực lượng vũ trang nước này “Tôi đã ra lệnh mua hàng chục
ngàn vũ khí bổ sung. Hiện chúng đang được vận chuyển đến Campuchia”. Hunsen
nói: “Tôi muốn tăng cường quân đội”. Hun Sen nói trong bài phát biểu được
phát trực tiếp trên Facebook. Nhà lãnh đạo Campuchia cho biết 40 triệu USD đã
được sử dụng trong năm nay ngoài khoản 290 triệu USD trong các thương vụ vũ khí
trước đây với Trung Quốc.Tờ The Wall Street Journal tuần trước đã đưa tin về một
dự thảo thỏa thuận cho phép Trung Quốc tiếp cận căn cứ Ream gần Sihanoukville để
cập cảng tàu chiến và cất giữ vũ khí. Báo New York Times của Mỹ chỉ ra sự bất
thường tại sân bay Trung Quốc xây
dựng ở Campuchia. Đó là có những khúc cua hẹp, điều mà các phi công lái máy bay
chiến đấu rất ưa thích. Sân bay có đường băng dài 3.200 mét sẽ là đường băng
dài nhất từ trước đến nay ở Campuchia, nằm rất gần cảng biển. Đường băng 3.200
mét đủ dài để các máy bay hành khách cỡ lớn như Airbus A380 cất và hạ cánh. Nó
còn dài hơn cả đường băng 3.000 mét ở sân bay quốc tế Phnom Penh hay sân bay
Siem Reap có đường băng dài 2.500m.
Công ty Trung Quốc xây
dựng đường băng và cảng nói rằng các cơ sở này là dành cho dân sự. Nhưng
quy mô của thỏa thuận đất đai tới 99 năm tại Dara Sakor có vị trí địa lý
chiến lược Tây nam Campuchia tiếp giáp Thái Lan – nơi chiếm 20% đường bờ
biển Campuchia – đã làm tăng sự chú ý, đặc biệt khi một phần của dự
án được xây dựng cho đến nay đã bị bỏ hoang trong rừng rậm. Theo New
York Times, hoạt động tại Dara Sakor và các dự án khác của Trung Quốc gần
đó đang làm dấy lên lo ngại rằng Bắc Kinh có kế hoạch ngầm về quân sự ở quốc
gia Đông Nam Á nhỏ bé này. Công trình mới tại Dara Sakor bao gồm đường
băng dài 3.000 m và cảng nước sâu có thể tiếp nhận các tàu 10.000 tấn.
Ông Hun Sen cáo buộc Mỹ tìm cách thúc đẩy cuộc cách mạng chống lại chính
phủ của ông. Hai năm trước, quân đội Campuchia đã đình chỉ các cuộc tập trận
quân sự chung với người Mỹ và bắt đầu hợp tác với người Trung Quốc. Tháng
7/2019, ông Hun Sen tuyên bố đã chi 240 triệu USD cho vũ khí Trung Quốc.
“Nếu Đại sứ quán Mỹ không thích chúng tôi, họ có thể cuốn gói. Họ là những
kẻ gây rối và chúng tôi thấy điều đó khi họ coi thường Campuchia”, Pay
Siphan, phát ngôn viên chính phủ, người có cả quốc tịch Mỹ và Campuchia, nói
trong cuộc phỏng vấn với New York Times.”Trung Quốc đang hướng tới sự
thịnh vượng của chúng tôi. Chúng tôi là những người bạn tốt”, ông Pay
Siphan nói thêm.
Tại Sihanoukville có tổng
số 300.000 người thì hơn 1/3 là người Trung Quốc.
Khoảng 95% trong số 436 nhà hàng ở Sihanoukville và 150/156 khách sạn ở
Sihanoukville nhận vốn đầu tư từ Trung Quốc. Hơn 80 sòng bạc do quá nửa là của
Trung Quốc đẩu tư, quản lý, khai thác kéo theo rất nhiều tệ nạn xã hội từ rửa
tiền, ma túy, cướp giật, mại dâm,… Hoạt động bùng nổ của các casino cũng thu
hút lực lượng lao động người Campuchia ở Sihanoukville. Ngược lại, những người
dân nghèo Campuchia không thể sống nổi vì chi phí thuê mặt bằng ngày càng tăng ở
Sihanoukville.
Một phân tích Kinh tế thế
giới ngày 15-08-2018 có nhận xét Sihanoukville là cuộc chạy đua giữa Trung Quốc
và Nhật Bản ở Campuchia. Ngày 25/6/2018, một cảng biển mới của Sihanoukville vừa
được đưa vào hoạt động với sự viện trợ từ Nhật Bản. Cảng đa dụng mới này có một
bến tàu với độ sâu 13,5m, cho phép các tàu hàng lớn và tàu hàng rời neo đậu. Một
cảng khác chuyên phục vụ hậu cần cho ngành dầu khí mới bắt đầu được khai thác ở
Campuchia. Tuy nhiên dù thế nào thì Sihanoukville là điểm quan trọng trong Sáng
kiến Vành đai Con đường của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Masayoshi Takehara, Giám
đốc giám sát đầu tư Nhật Bản khu vực Lào và Campuchia cho biết: “Cảng
Sihanoukville là dự án mang tính biểu tượng của chúng tôi.”
Lập trường của CNRP và
Sam Rainsy lại luôn dùng chiêu bài chống Việt Nam và kích động chủ nghĩa dân tộc
ở Campuchia cũng như vấn đề biên giới để giành sự ủng hộ và trục lợi trong các
kỳ bầu cử. Sam Rainsy công khai ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Tuy
nhiên theo Diplomat, chủ nghĩa Sô vanh của CNRP chắc chắn sẽ gây ra khó khăn nếu
đồng minh tự nhiên của nước này là Mỹ, nước kêu gọi đảng này ủng hộ lập trường
của Mỹ trong tranh chấp Biển Đông.Nếu CNRP chiến thắng trong cuộc bầu cử trong
tương lai hoặc nếu CPP sẵn sàng chuyển giao quyền lực, không chắc liệu quan hệ
Campuchia với Trung Quốc sẽ phát triển theo chiều hướng nào.
6.- Dầu khí của Campuchia:
Từ năm 1950, một nhóm địa chất Trung Quốc về thăm dò dầu khí đã đến Campuchia.
Những năm thập niên 1960, các nhà địa chất Ba Lan đã tiến hành trắc đạc địa chất
và cấu trúc, xác định được một số rò rỉ dầu. Đến những năm 1970, việc khai thác
tại các lô I, III, và IV tại ngoài khơi Campuchia được giao cho hai hãng Elf và
Esso, đưa họ trở thành các đơn vị đầu tiên thực hiện các hoạt động khoan tại
ngoài khơi nước này. Ba giếng dầu được khoan là B-1, H-1 và L-1. Năm 1987, các
nhà địa chất Nga và Campuchia đã tiến hành các nghiên cứu địa chất và địa vật
lý, xác định 7 bể trầm tích trên bờ và ngoài khơi, đồng thời chia chúng thành 7
lô ngoài khơi và 9 lô trên đất liền (I đến XIX).
Với nhu cầu dầu mỏ ở mức 1,7 triệu tấn/năm, Campuchia phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn sản phẩm nhập khẩu từ các nước trong khu vực như Việt Nam, Thái Lan, Singapore và Malaysia, trong đó phần lớn nhập khẩu từ Việt Nam (60-70%).
Cơ quan Dầu khí quốc gia
Campuchia CNPA được thành lập năm 1998 với tư cách vừa là vừa là một công ty dầu
khí quốc gia vừa là một cơ quan chủ chốt của Chính phủ với chức năng giám sát tất
cả các hoạt động thuộc lĩnh vực dầu khí thượng nguồn và hạ nguồn tại Campuchia.
CNPA có trách nhiệm xem xét và phê duyệt đề xuất đầu tư. Chủ tịch CNPA sẽ báo
cáo trực tiếp với Thủ tướng Chính phủ. Ngày 15/3/2014, CNPA được sáp nhập với Bộ
Mỏ và Năng lượng Campuchia, ông Suy Sem được bổ nhiệm làm Bộ trưởng. Hiện 6 lô
dầu khí (từ A đến F) tại vịnh Thái Lan và 19 lô dầu khí trên bờ (từ I đến XIX)
như đã nói ở trên đều do CNPA chịu trách nhiệm quản lý và giám sát.Nguồn luật
dùng để điều chỉnh lĩnh vực dầu khí thượng nguồn tại Campuchia là Luật Dầu mỏ
1991 và được sửa đổi năm 1998/1999.
Cho đến nay, Campuchia được
xác định là có 08 bể trầm tích, chia thành 19 khối trên bờ và 6 khối khu vực
ngoài khơi. Lô A nằm trong Vịnh Thái Lan là Mỏ dầu tô nhượng Apsara hứa hẹn nhất
– giấc mơ sống còn của Campuchia. Sản xuất từ trữ lượng dầu ước tính 30 triệu thùng của Lô A sẽ giúp giảm bớt sự phụ
thuộc vào nhập khẩu năng lượng, đặc biệt là khi nhà máy lọc dầu do Trung Quốc hậu
thuẫn sẽ hoàn thành vào năm 2022. Nếu khai thác hết, sẽ giúp đa dạng hóa một nền
kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu hàng may mặc – và đầu tư ngày càng tăng của
Trung Quốc. Campuchia hiện có 12 đầu mối nhập khẩu kinh doanh xăng dầu, bao gồm
9 doanh nghiệp tư nhân trong nước và 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Chevron
với nhãn hiệu Caltex, Total (Pháp), PTT (Thái Lan). Mạng lưới bán lẻ xăng dầu của
Campuchia bao gồm hơn 1000 cửa hàng xăng dầu lớn nhỏ, phân bố trên 24 tỉnh
thành, tập trung nhiều hơn ở thủ đô Phnôm Pênh. Hệ thống này phát triển tự do
vì Nhà nước không có quy hoạch cụ thể về mạng lưới xăng dầu, tuy nhiên, những
chế tài về chất lượng nhiên liệu, hệ thống phân phối có các quy định về đại lý
được Luật hóa.Campuchia đã nhận được hàng tỷ các khoản đầu tư và vay nợ liên
quan đến việc thúc đẩy cơ sở hạ tầng thuộc chương trình Vành đai và con Đường của
Trung Quốc. Mặc dù sản lượng dầu của Lô A dự kiến ban đầu là khiêm tốn, nhưng
Chính phủ Campuchia hy vọng đây sẽ là bước đầu tiên trong việc phát triển ngành
dầu khí của Campuchia. Ngành dầu mỏ của Campuchia đã bị bao vây, trì trệ hàng
thập kỷ khi các tập đoàn năng lượng có hạng trên thế giới, từ hãng Chevron (Hoa
Kỳ) cho đến PTT (Thái Lan), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Dầu khí
Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đến rồi đi có nguyên nhân khó khai thác
và sự ổn định, minh bạch hệ thống pháp luật Campuchia.
Năm 2014, Công ty dầu khí KrisEnergy – là Công ty này đã trả 65 triệu USD cho cổ
phần kiểm soát của Chevron tại Lô A hiện đang vật lộn để duy trì hoạt động và mới
đây đã được tòa án cho phép ba tháng để cơ cấu lại gánh nặng nợ nần. KrisEnergy
dự báo giai đoạn đầu tiên của dự án sẽ mang lại khoảng 8.000 thùng dầu thô mỗi
ngày và khoảng 8,5 triệu thùng trong suốt thời hạn khai thác. Với tổng số nợ
476,8 triệu đô la và đang ở mức 110%, vị thế tiền mặt của nó bị “hạn chế nghiêm
trọng” – KrisEnergy nói với các cổ đông trong một bài thuyết trình vào tháng
9/2019. Công ty Tài nguyên Angkor (trước đây gọi là Angkor Gold), đang giữ giấy
phép thăm dò hoạt động duy nhất khác ở Campuchia. Một công ty Canada, có lợi
ích khai thác tại nước này, đã được trao quyền thăm dò 01 trong 19 lô trên đất
liền của Campuchia vào tháng 8/2019.
Vùng có tiềm năng dầu khí quan trọng hơn được đánh giá là Khu vực Yêu cầu Chồng
lấn (OCA), một vùng nước rộng 27.000 km2 tại Vịnh Thái Lan được Thái Lan và
Campuchia tuyên bố chủ quyền. Một đường dây Ngoại giao của Hoa Kỳ năm 2008 đã
chỉ ra rằng: “ Trong khi Chevron nghi ngờ về lợi nhuận của Lô A, thì tập đoàn
này lại rất muốn được đảm bảo một thỏa thuận trong OCA nếu tranh chấp được giải
quyết”. Sau Luật dầu mỏ Campuchia năm 1991, gói thầu đầu tiên bao gồm 3 hợp đồng
phân chia sản lượng với các hãng dầu khí, cụ thể là:
1/ Enterprise Oil (Lô I và II) [1]
2/ Cambodian Petroleum Exploration (Campex Japan) (Lô III)
3/ Premier Oil UK [2] và Idemitsu (Block IV) được tiến hành.
Tính từ 1970 đến năm 2002, tổng cộng 12 giếng dầu đã được các hãng dầu mỏ quốc
tế khai thác, bao gồm: 3 giếng (Elf và Esso – Pháp), 4 giếng (Enterprise Oil –
UK), 3 giếng (Cambodian Petroleum Exploration – Campex Japan), 2 giếng (Premier
Oil – UK). Năm 1998, bối cảnh lợi nhuận thấp và giá dầu tuột dốc, những nhà điều
hành này không thể tiếp tục thực hiện các hợp đồng này. Tháng 1/2005, Chevron
tuyên bố phát hiện dầu khí đáng kể đầu tiên của Tập đoàn tại Campuchia với 4 giếng
dầu thăm dò và một giếng khí ngoài khơi nước này, thu hút được khá nhiều nhà đầu
tư nước ngoài.Hiện trong tổng số 19 lô dầu khí trên đất liền của nước này,
PetroVietnam – Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang chịu trách nhiệm về dự
án lô XV – Campuchia (Theo hợp đồng đã ký với Cơ quan Quản lý Dầu khí Quốc gia
Campuchia CNPA từ năm 2009 và có thời hạn là 37 năm do PVEP – thuộc
PetroVietNam- nắm giữ 100% cổ phần).
Ngày 04/11/2019, bất chấp những khó khăn tài chính và hoạt động bị hạn chế,
KrisEnergy – công ty duy nhất được phép thăm dò và khai thác dầu mỏ và khí đốt ở
Campuchia có trụ sở ở Singapore – vừa cam kết sẽ bơm lên những thùng dầu đầu
tiên cho Campuchia sau nhiều lần khởi đầu không thành và nhiều nỗ lực đều thất
bại (Nguồn: Nikkei). Tháng 7/2019, KrisEnergy thông báo hoạt động thăm dò
địa chấn ba chiều (3D) trên diện tích 1.200 km2 tại Lô A đã được bên thứ ba
hoàn thành đúng thời hạn. Kết quả cho thấy khu vực này an toàn và đảm bảo về
môi trường để có thể khai thác dầu khí. Công ty Shearwater Geoservices
Singapore Pte Ltd đã tiến hành thăm dò địa chấn bằng tàu chuyên dụng có tên SW
Vespucci. Tàu nghiên cứu địa chấn SW Vespucci được đóng năm 2010 và hiện mang cờ
Cộng hòa Czech. KrisEnergy cũng cho biết kết quả thăm dò 3D trên diện tích khoảng
200 km2 Lô A do Geoservices Singapore thực hiện. Nằm tại Lô A Campuchia trong Vịnh
Thái Lan, giai đoạn 1A của dự án phát triển Apsara dự kiến sẽ sử dụng một giàn
khoan đạt công suất khai thác lên tới 30.000 thùng chất lỏng mỗi ngày, gồm khí
đốt, dầu mỏ và nước tách biệt. Theo thông cáo của KrisEnergy, số dầu này sẽ được
chuyển qua đường ống dài 1,5 km về kho dự trữ và tàu chở hàng. KrisEnergy là
đơn vị khai thác dầu tại Lô A Campuchia và họ sẽ nhận 95% lợi nhuận, 5% còn lại
thuộc về Bộ Kinh tế và Tài chính Campuchia đại diện cho Chính phủ Hoàng gia
Campuchia.
Lô A Campuchia có tổng diện tích 3.083 km2 thuộc Lòng chảo Khmer trong Vịnh
Thái Lan với độ sâu của nước vào khoảng 50-80 m. Ở khu vực này, mỏ dầu có quy
mô nhỏ và nằm trải dài, đòi hỏi mất nhiều vốn và thời gian để khai thác. Trữ lượng
dầu tại đây còn chưa được kiểm chứng. Vì sự không chắc chắn liên quan đến khai
thác dài hạn, trữ lượng và tính thương mại nên KrisEnergy rất thận trọng trong
kế hoạch phát triển tại đây. Một khi giai đoạn đầu tiên đi vào hoạt động và có
thời gian kiểm chứng trữ lượng, KrisEnergy sẽ triển khai giai đoạn 1B, theo đó
sẽ lắp đặt thêm 3 giàn khoan và trong giai đoạn 1C có thể bổ sung 6 giàn khoan,
nâng tổng số giàn khoan hoạt động tại Lô A lên 10 giàn khoan. Bất chấp những
khó khăn tài chính, tháng 11/2018, KrisEnergy vẫn dành cho Keppel hợp đồng sửa
và nâng cấp sà lan khoan dầu của SJ Production Barge Ltd – chi nhánh do
KrisEnergy sở hữu toàn phần. Keppel đang đóng sà lan khoan dầu trị giá khoảng
22 triệu USD cho dự án của KrisEnergy tại Lô A Campuchia (Nguồn Bộ Ngoại giao
Việt Nam).
Ngày 28/12/2016, Cơ quan nhà nước phụ trách dầu khí của Campuchia đã thông qua
một thỏa thuận cho phép công ty SINOMACH China Perfect Machinery Industry củaTrung
Quốc và Công ty hóa dầu Campuchia cùng đầu tư 2,3 tỷ USD để xây dựng một nhà
máy lọc dầu tại miền duyên hải tây nam nước này. Nhà máy sẽ được xây dựng trên
diện tích 80 hecta, trong phạm vi ranh giới của tỉnh Preah Sihanouk và tỉnh
Kampot. Tuy nhiên đến nay không có các thông tin được kiểm chứng về hoạt động dầu
khí của SINOMACH China Perfect Machinery Industry.
Khối lượng hàng nhập cảng Sihanukville trong năm 2017 đạt 459.839 TEUs
(container hóa), gần gấp đôi so với năm 2011. Tốc độ xử lý hàng tăng 22% trong
sáu tháng đầu năm 2018. Cảng biển sẽ mở rộng sức chứa lên tới 1,3 triệu TEUs
năm 2023. Ý nghĩa chiến lược của cảng biển này ngày càng tăng cùng với việc
Trung Quốc theo đuổi Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative),
trong đó Bắc Kinh đang tìm cách tiếp cận các cảng biển Á- Âu, bao gồm khu vực
Đông Nam Á. Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn nhất của
Campuchia trong năm 2010, và hiện giờ nguồn viện trợ của Trung Quốc gấp ba lần
Nhật Bản. Việc xây dựng một cảng container khác, với bến tàu có chiều dài 350m
và độ sâu 14,5m, đang được bàn thảo.Chủ tịch, kiêm GĐĐH, Lou Kim Chun, trả lời
tờ Nikkei Asian Review trong một buổi phỏng vấn gần đây, cho biết việc xây dựng
này cho phép “Một lượng tàu hàng lớn cập cảng, khắc phục hạn chế về sức chứa”.
Theo kế hoạc sẽ đưa cảng vào hoạt động trong năm 2023 theo kế hoạch, cảng biển
sẽ đáp ứng được hơn 90% lượng tàu trong khu vực, so với mức 20% như hiện tại
(Nguồn Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam).
Ngày 26/5/2010, Campuchia đã khai mạc Hội nghị Khai khoáng quốc tế, với mục
tiêu tìm kiếm giải pháp thúc đẩy phát triển ngành khai khoáng của nước này. Hội
nghị, diễn ra hai ngày, do Bộ Công nghiệp, Khai mỏ và Năng lượng Campuchia và
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Campuchia phối hợp tổ chức.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Campuchia Hun Sen nói: “ Phnom Penh rất
vui mừng khi được học hỏi và chia sẻ các công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ
các nước khác trong lĩnh vực khai khoáng, nhất là lĩnh vực khai thác dầu khí.
Các nguồn tài nguyên khoáng sản giữ một vai trò quan trọng trong việc nỗ lực cải
thiện mức sống của người dân và thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chính phủ
Campuchia cho hay nước ông vẫn chưa được hưởng lợi ích gì từ tài nguyên thiên
nhiên vì Campuchia không thể tự phát triển với hai bàn tay trắng”.
7.- Tập đoàn Dầu khí Việt Nam khai thác dầu khí trên lãnh thổ Campuchia:
Tháng 11/2009, theo bản hợp đồng được Tổng công ty Thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP) và Uỷ ban Dầu khí Quốc gia Campuchia (CNPA) ký ngày 12/11/2009 tại Thủ đô Phnompenh (Campuchia), PVEP sẽ tiến hành khai thác dầu khí tại lô XV, vùng hồ Tonle Sap, thuộc Campuchia. Tham dự lễ ký, có Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Samdech Hunsen, Phó thủ tướng Việt Nam Hoàng Trung Hải và lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, cùng đại diện các bộ, ngành của hai nước. Lô XV thuộc vùng hồ Tonle Sap có diện tích khoảng 6.900 km2 nằm ở phía đông bắc hồ Tonle Sap (còn gọi là Biển Hồ), trong đất liền Campuchia. Hợp đồng khai thác dầu khí tại lô này có thời hạn 30 năm đối với dầu và 35 năm đối với khí, giai đoạn thăm dò kéo dài 7 năm. Hợp đồng do PVEP nắm giữ 100% cổ phần và dự kiến sẽ được quản lý và điều hành bởi PVEP-Mekong, một đơn vị thành viên của PVEP hiện đang triển khai các dự án dầu khí tại Lào và Myanmar.
Ngày 26/3/2020, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) đang cùng với các nước
trong khu vực Đông Nam Á là Thái Lan, Brunei và Campuchia thương thảo để xác định
vùng khai thác dầu khí chung trên biển. Phó tổng giám đốc PVN Nguyễn Quốc Thập
cho biết tại buổi họp báo sáng 20/11 giới thiệu về hội nghị và Triển lãm Hội đồng
Dầu khí ASEAN (Ascope) lần thứ 10 diễn ra tại TP.HCM từ ngày 28 đến 30/11/2019.
Vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia đã thỏa thuận xác định thành vùng khai
thác chung giữa PVN với Công ty Dầu khí quốc gia Malaysia (Petronas) đã có sản
phẩm dầu khí từ năm 1997, đây là dự án hợp tác thành công bước đầu khi PVN tham
gia vào Ascope. Với nguyên tắc thương thảo vùng khai thác chung thì PVN tiếp tục
xúc tiến với các nước khác gồm Thái Lan, Brunei, Campuchia ở vùng biển Tây Nam
và cả ở vùng biển Vịnh Bắc bộ với Trung Quốc. Hội đồng Dầu khí ASEAN (Ascope)
được thành lập vào tháng 10/1975. PVN gia nhập vào Ascope từ năm 1996. Mười
thành viên của Ascope hiện nay gồm: Công ty Dầu khí quốc gia Brunei (Petroleum
Bruinei), Cơ quan Quản lý dầu khí Campuchia (CNPA), Công ty Dầu khí quốc gia
Indonesia (Pertamina), Công ty nhiên liệu quốc gia Lào (LSFC), Công ty dầu khí
quốc gia Malaysia (Petronas), Công ty Dầu khí quốc gia Myanmar (MOGE), Công ty
Dầu khí quốc gia Philippines (PNOC), Tập đoàn Keppel (Singapore), Công ty Dầu
khí PTT (Thái Lan) và Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) – Nguồn của PVN.
Ngày 22/11/2018, Bộ Ngoại giao Việt Nam – bà Nguyễn Phương Trà, Phó phát ngôn
viên
Hợp tác dầu khí giữa
Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông chỉ có thể được tiến hành tại những khu vực
mà hai quốc gia này có quyền và quyền chủ quyền, theo đúng các quy định của
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982. Đó là khẳng định của bà Nguyễn Phương
Trà – Phó Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam, tại cuộc họp báo thường kỳ chiều
22/11. Tại cuộc họp báo, việc Trung Quốc và Philippines ký biên bản hợp tác về
dầu khí được đưa ra, trong đó quan điểm của Trung Quốc là mong muốn có thể đàm
phán để cùng các nước ven Biển Đông triển khai mô hình hợp tác tương tự. Trả lời
về vấn đề này, bà Nguyễn Phương Trà đã nêu rõ quan điểm của Việt Nam: “Lập trường
của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, bao gồm cả chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
lợi ích hợp pháp trên biển là rõ ràng, nhất quán và đã được nêu nhiều lần. Hợp
tác dầu khí giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông chỉ có thể được tiến
hành tại những khu vực mà hai quốc gia này có quyền và quyền chủ quyền, theo
đúng các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.” . Hồi tháng 9
vừa qua, tại Phiên họp lần thứ 11 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt
Nam – Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị cho rằng: “Cách tốt
nhất để kiểm soát bất đồng giữa Việt Nam – Trung Quốc là cùng hợp tác để khai
thác trên biển”.
Ngày 10/9/2019, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte cho
biết Chủ tịch Trung Quốc (TQ)
Tập Cận Bình đã đề nghị dành cho Manila cổ phần kiểm soát liên doanh năng lượng
ở biển Đông nếu họ gạt sang một bên phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế chống
lại Bắc Kinh.“Ông Tập Cận Bình đã nói rằng (Philippines) hãy gác các phán
quyết của Tòa trọng tài sang một bên, sau đó cho phép mọi người kết nối với các
công ty TQ để khai thác (dầu khí). Nếu có tài nguyên, các ông giữ 60%, còn lại
của họ (phía TQ) chỉ 40%. Đó là lời hứa của ông Tập”.
Tuy nhiên Phó Chánh án Tòa án Tối cao Philippines Antonio Carpio nhận định
Chính phủ Philippines không thể cho phép ngư dân TQ đánh cá ở EEZ của
Philippines vì điều đó vi phạm hiến pháp năm 1987, theo báo The Philippine Star
hôm 27-7. Theo điều 12 mục 2 của hiến pháp, chính phủ Philippines phải bảo vệ
các nguồn tài nguyên ở vùng nước quần đảo, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế,
đồng thời đảm bảo đặc quyền khai thác, sử dụng của người dân Philippines ở
đó. Ông Carpio khẳng định: “Người dân Philippines có đặc quyền đánh bắt
cá, khai thác dầu khí và các khoáng sản khác trong EEZ của họ. Quyền chủ quyền
này thuộc về người Philippines và không có bất kỳ quan chức nào có thể từ bỏ
quyền này mà không có sự đồng ý của người dân”. Vị này viện dẫn thêm điều 1
của Hiến pháp Philippines, đồng thời nhắc lại phán quyết của Tòa Trọng tài
2016. Từ đó ông Carpio khẳng định khu vực mà Philippines có chủ trương khai
thác chung với TQ nằm hoàn toàn trong EEZ của Philippines, tức là hoàn toàn thuộc
chủ quyền của Philippines, nên Manila không thể cho phép Bắc Kinh khai thác
chung. Theo chuyên gia Hoàng Việt, liên quan khai thác chung, khoản 2 điều 12 của
hiến pháp năm 1987 Philippines quy định: “Tất cả đất đai, tài nguyên nước,
khoáng sản, mỏ than, dầu mỏ, khí đốt và các tài nguyên thiên nhiên khác thuộc sở
hữu của nhà nước. Việc thăm dò, phát triển và sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên này phải được dưới sự kiểm soát hoàn toàn và sự giám sát đầy đủ của
nhà nước.
Báo The Philippine Star dẫn lời các thượng nghị sĩ Philippines khẳng định Tổng
thống Duterte không có thẩm quyền cho phép người nước ngoài khai thác tài
nguyên trong EEZ của Philippines. Đồng tình, cựu bộ trưởng Ngoại giao
Philippines Albert del Rosario nhấn mạnh nếu để TQ đánh bắt trong EEZ Philippines,
điều đó sẽ vi hiến. Trong khi đó, thượng nghị sĩ Panfilo Lacson đã lên tiếng chỉ
trích.
Ngày 29/07/2019, Trung Quốc
điều tầu nghiên cứu mới Da Yang Hao vào khu vực Biển Đông.
Tàu Da Yang Hao được triển
khai ra Biển Đông, nó sẽ hỗ trợ đắc lực cho sự hiện diện trên biển của Trung Quốc
ở Biển Đông đồng thời nâng cao năng lực chiến lược của Bắc Kinh. Tàu Da Yang
Hao có chiều dài 98,5 m và rộng 17 m, lượng giãn nước toàn tải là 4.600 tấn.
Con tàu này được trang bị các thiết bị hiện đại như thiết bị nghiên cứu dưới nước,
máy sonar và hệ thống cảm biến điều khiển từ xa.
Ngày 26/3/2020, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Bộ
Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết
phản ứng của Việt Nam trước thông tin trên báo chí Trung Quốc cho biết Trung Quốc
đã triển khai hai trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập và Đá Xu-bi thuộc quần đảo
Trường Sa của Việt Nam.
8.- Trữ lượng Dầu Khí Việt nam:
Ngày 04/12/2013, PVN thông báo với trữ lượng dầu
thô ước tính đạt 4,4 tỷ thùng, Việt Nam là nước đứng thứ nhì ở khu vực Đông Á về
trữ lượng dầu, chỉ thua Trung Quốc. Hãng dầu lửa BP cho hay, năm ngoái, sản lượng
dầu thô của Việt Nam đạt 348.000 thùng/ngày, tăng 10% so với năm 2011 và là mức
cao nhất kể từ năm 2006. Cũng theo số liệu từ BP được Bloomberg dẫn lại. Theo số
liệu được công bố trong công trình “Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam”
thì trữ lượng và tiềm năng dầu khí bể Sông Hồng có thể đạt 1,1 tỷ m3 quy
dầu; tiềm năng tài nguyên thu hồi bể Phú Khánh có khoảng 400 triệu m3 quy
dầu; trữ lượng tiềm năng có thể thu hồi bể Cửu Long có khoảng 2,6 – 3,0 tỷ m3 quy
dầu; tài nguyên có thể thu hồi bể Nam Côn Sơn có khoảng 900 triệu m3 quy
dầu; tiềm năng tài nguyên dầu khí bể Mã Lai – Thổ Chu có khoảng 350 triệu
tấn quy dầu; tiềm năng tài nguyên bể Tư Chính – Vũng Mây có khoảng 800 – 900 triệu tấn
quy dầu. Tuy nhiên, công ty CONOCO năm 2000 đánh giá chỉ 3 cấu tạo triển vọng
nhất của các lô 133, 134 thuộc phạm vi bể Tư Chính – Vũng Mây đã cho con số tiềm
năng từ 600 đến 1.600 triệu tấn nếu là dầu hoặc từ 10 TCF (286 tỷ m3)
đến 30 TCF (857 tỷ m3) nếu là khí. Cho đến nay đã xác định được
trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam hiện diện 8 bể trầm tích Đệ tam là bể Sông
Hồng, Hoàng Sa, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Tư Chính- Vũng Mây, Trường
Sa và Mã lai -Thổ Chu.
Các mỏ dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác từ lòng đất
dưới đáy biển khu vực thềm lục địa phía Nam, nơi có độ sâu 50 – 200m nước và
trong tầng cấu trúc địa chất sâu trên 1000m đến trên 5000m.Tính đến cuối năm
2013, trong nước có 9 lô hợp đồng có hoạt động phát triển mỏ và 13 hợp đồng có
hoạt động khai thác dầu khí (từ 14 mỏ/cụm mỏ dầu và 6 mỏ/cụm mỏ khí). Toàn
Ngành đã khai thác được 268,31 triệu tấn dầu thô; trong đó, sản lượng khai thác
từ Vietsopetro đạt 189,9 triệu tấn, sản lượng khai thác từ PVEP đạt 78,3 triệu
tấn. Riêng năm 2013, sản lượng khai thác dầu thô là 15,25 triệu tấn, khí là
9,75 tỷ m3; năm 2014 sản lượng khai thác dầu thô đạt 17,39 triệu tấn,
khí đạt 10,21 tỷ m3.
Đặc biệt trong năm 2015, mức sản lượng vẫn tiếp tục tăng và duy
trì ở mức cao, dầu thô đạt 18,75 triệu tấn, khí 10,67 tỷ m3 đẩy mạnh công tác
tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ. Quá trình tìm kiếm thăm dò trong giai đoạn
2011 – 2015 đã đưa được 36 mỏ và công trình dầu khí mới vào khai thác. Trong
đó, năm 2011 có 3 mỏ trong nước: Đại Hùng pha 2, Tê Giác Trắng, Chim Sáo và 2 mỏ
nước ngoài: Visovoi, Dana. Năm 2012 có 7 mỏ/công trình được đưa vào khai thác
bao gồm 4 mỏ/công trình trong nước: giàn H4 mỏ Tê Giác Trắng, mỏ Gấu Trắng, Sư
Tử Trắng, Lan Đỏ và 3 mỏ ở nước ngoài: mỏ Tây Khosedayu, mỏ Junin 2, mỏ
Nagumanov.
Năm 2013 và 2014 số lượng mỏ đưa vào khai thác tăng mạnh và đạt 9 mỏ mỗi
năm. Năm 2015 chỉ có 4 mỏ mới được đưa vào khai thác, đó là mỏ khí Thái Bình, mỏ
Bir Seba Lô 433a-416b, giàn H5 Tê Giác Trắng và giàn Thỏ Trắng 2. Bên cạnh quá
trình tìm kiếm thăm dò này còn triển khai công tác phát triển mỏ đối với các mỏ
Sư Tử Trắng, giai đoạn 2 phát triển mỏ Đại Hùng, mỏ Hải Thạch – Mộc Tinh – Lô
05-2 và 05-3, mỏ Tê Giác Trắng – Lô 16-1, mỏ Hải Sư Trắng và Hải Sư Đen – Lô
15-2/01, mỏ Chim Sáo, Dừa – Lô 12W. Tuy nhiên các mỏ dầu này đều có trữ lượng
nhỏ (mỏ dầu lớn nhất trong số các mỏ mới phát hiện là mỏ Sư Tử Đen với trữ lượng
khoảng 100 triệu tấn, chỉ bằng 1/3 mỏ Bạch Hổ).
Theo kết quả đánh giả trữ
lượng các mỏ dầu của Việt Nam thì tổng trữ lượng dầu tiềm năng của nước ta khoảng
7,5 tỉ m3 quy dầu. Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981
(mỏ khí Tiền Hải C – Thái Bình) và khai thác dầu cùng với khí đồng hành từ năm
1986 (mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam). Từ đó, Việt Nam bắt đầu có tên trong
danh sách các nước khai thác, xuất khẩu dầu thô trên thế giới. Tính đến ngày
31/12/2015 toàn Ngành Dầu khí đã khai thác được 352,68 triệu tấn dầu và 114,03
tỷ m3 khí cộng dồn. Năm 2015, mức sản lượng vẫn tiếp tục tăng
và duy trì ở mức cao, dầu thô đạt 18,75 triệu tấn, khí 10,67 tỷ m3.Với
năng suất khai thác dầu khí như hiện nay thì dự đoán sau thời gian 380 năm nữa
dầu sẽ hết. Và để có dầu khí khai thác phát triển kinh tế chúng ta phải tiếp tục
tìm kiếm các mỏ dầu khác hoặc phải mua dầu của thế giới. (nguồn PVN)
9.- Thiết bị quân sự của Trung Quốc bị hư hỏng tại các đảo nhân tạo Biển Đông:
Ngày 06/07/2019, Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang khẩn trương tìm kiếm một lớp
phủ vật liệu mới cho các vũ khí và công trình xây dựng trái phép trên các đảo
nhân tạo phi pháp ở Biển Đông. Tàu chiến, tàu sân bay của Trung Quốc đối
mặt với nhiều thách thức vì khí hậu ở Biển Đông.“Các khẩu pháo không thể sử dụng được nữa chỉ sau 3 tháng
vì bị ăn mòn, rỉ sét”, một nhà nghiên cứu tham gia vào dự án nói, theo
SCMP. Lớp phủ graphene được Trung Quốc nghiên cứu cho cả mục đích quân sự và
dân sự. Các thách thức được nêu ra bao gồm nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, sương mù,
nông độ muối trong không khí và bức xạ nhiệt lớn. Việc các khí tài quân sự và vật
liệu xuống cấp nhanh chóng là điều khiến quân đội Trung Quốc bất ngờ. “Các cấu
trúc bê tông bắt đầu bị tan ra sau chưa đầy 3 năm, và các trang bị kim loại bị
hỏng sau khoảng 1 năm do ăn mòn,” ông Hu viết. “Sự ăn mòn nhanh chóng không chỉ
tác động nghiêm trọng đến hoạt động mà còn làm gia tăng đáng kể chi phí vận
hành, bảo trì”. Rỉ sét khí tài là vấn đề lớn đối với quân đội các nước trên
thế giới. Mỹ đã chi tới 21 tỷ USD/năm để đối phó với tình trạng rỉ sét trên
các chiến đấu cơ, tàu chiến, tên lửa và vũ khí hạt nhân, theo báo cáo của Lầu
Năm Góc. Số liệu của quân đội Trung Quốc không được công bố, nhưng Viện khoa học
Trung Quốc (CAS) năm 2017 nói hiện tượng ăn mòn đã tiêu tốn của Trung Quốc khoảng
300 tỉ USD vào năm 2014, tương đương 3% GDP.Trung Quốc những năm qua đã không
ngừng xây đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông. Lớp phủ do Trung Quốc nghiên cứu
được cho là rẻ hơn giá trị trường, khoảng 8 USD/kg. “Điều kiện khí hậu ở Biển
Đông đặt ra nhiều thách thức”, một nhà nghiên cứu nói. “Dây chuyền sản xuất của
chúng tôi đang hoạt động hết công suất để đáp ứng nhu cầu”. Zhang Lei, một
chuyên gia về ăn mòn và bảo vệ tại Đại học Khoa học Công nghệ ở Bắc Kinh, nói
phủ lớp graphene thôi là chưa đủ, vì những vết nứt, xước trên bề mặt vật liệu vẫn
gây ra tình trạng ăn mòn. (Nguồn Tân Hoa xã).
Nhận xét:
Để xác định kế hoạch dự
kiến chiến lược của Trung Quốc có thể biến Campuchia thành một căn cứ quân sự của
Trung Quốc tại Đông Nam Á và gây sức ép với Việt Nam trong tương lai gần cần có
nhiều thông tin chính xác hơn nữa. Tập quán lâu đời của các triều đại Phương Bắc
với hy vọng thành lập một Nhà nước thuộc Trung Quốc tại bán đảo Đông Dương vốn
là truyền thống lâu đời “ Trên đánh xuống, Dưới đánh lên” nhằm khuất phục
Việt Nam là một sự thật lịch sử. Sự thăm dò dầu khí của Trung Quốc tại
Campuchia có trữ lượng chưa xác định có thể chỉ là hình thức để khống chế Việt
Nam từ trên biển tại Vịnh Thái Lan. Nguy cơ chủ yếu vẫn từ các căn cứ quân sự
dưới vỏ bọc khu nghỉ dưỡng vui chơi giải trí, sân bay, cảng biển phía Nam và
Tây Nam Campuchia. Tuy nhiên, xét về quá khứ hiện đại đau thương của Dân tộc
Khmer từ 1975 – 1979 dưới thời Khmer Đỏ cùng cuộc bình định xây dựng lại
Campuchia của Chính Phủ Hun Sen phối hợp với quân đội Nhân dân Việt Nam từ 1979
– 1989 cho thấy khó có thể lại sẩy ra một cuộc xung đột có nguy cơ dẫn đến chiến
tranh cục bộ hay chiến tranh toàn diện dưới thời Thủ tướng Hun Sen trong khoảng
10 năm tới.
------------------
Hà nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020
No comments:
Post a Comment