Minh
Anh (Nghiên
cứu Biển Đông) giới thiệu
Thứ sáu, 05 Tháng 6 2020
15:27
Bắc Kinh đang từng bước
tiến đến mục tiêu buộc cộng đồng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của
nước này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một
bước tiến mới trong nghị trình của mình.
Bắc Kinh đang từng bước
tiến đến mục tiêu buộc cộng quốc tế chấp thuận các tuyên bố chủ quyền của nước
này đối với Biển Đông. Cứ mỗi thập kỷ trôi qua, Bắc Kinh lại đạt được một bước
tiến mới trong nghị trình của mình. Trong những năm 1970, Trung Quốc tập trung
phần lớn nỗ lực vào việc đưa ra các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng
Sa, nằm ở phía Bắc Biển Đông và gần với Trung Quốc. Việc Trung Quốc sử dụng vũ
lực để chiếm đóng Đá Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 là động thái gây bất ngờ.
Trong khi đó, điểm nổi bật của những năm 1990 là chiến lược “xâm chiếm từ từ”,
mà kết quả đáng chú ý là các cấu trúc được xây dựng tạm thời trên Đá Vành Khăn
thuộc quần đảo Trường Sa ở phía Nam Biển Đông. Năm 1999, Bắc Kinh bắt đầu tìm
cách áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đối với các nước khác ở vùng biển này trong
các tháng mùa Hè, thể hiện quyền kiểm soát hành chính của Trung Quốc đối với
khu vực này.
Xu hướng này lên đến đỉnh
điểm trong kỷ nguyên Tập Cận Bình, khi Trung Quốc có những hành vi ứng xử trơ
trẽn theo kiểu nước lớn. Việc Trung Quốc quấy rối các tàu nước ngoài đang đánh
bắt cá hay khai thác tài nguyên, và thậm chí còn lao thẳng vào những tàu này,
đã trở nên phổ biến ở khu vực phía Nam “đường 9 đoạn” do chính Trung Quốc vạch
ra. Tất nhiên, Tập Cận Bình đã giám sát việc xây dựng ba căn cứ khá lớn trên
các bãi đá nhân tạo, tạo điều kiện cho sự hiện diện lâu dài của Quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở khu vực phía Nam Biển Đông. Các động thái phản đối
của cộng đồng quốc tế - bao gồm khiếu nại của các nước Đông Nam Á, phán quyết của
Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) đối với Trung Quốc và một loạt hoạt động tự do
hàng hải của Mỹ - cũng không thể ngăn chặn các hành động nhằm củng cố các tuyên
bố chủ quyền của Bắc Kinh.
Việc đạt được mục tiêu ở
Biển Đông sẽ mang lại cho Bắc Kinh những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị
và chiến lược. Họ sẽ có quyền ưu tiên đối với các nguồn tài nguyên trên biển
như cá và các nguồn tài nguyên dưới đáy biển như dầu lửa, khí đốt và khoáng sản.
Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể củng cố tính hợp pháp của mình bằng cách rêu
rao với công chúng trong nước rằng Trung Quốc đã đánh bại các nỗ lực nước ngoài
nhằm xâm chiếm lãnh thổ “của họ”. Và Trung Quốc sẽ cải thiện đáng kể vị thế chiến
lược của mình trong khu vực.
Yêu sách của Trung Quốc
mơ hồ một cách có chủ ý. Bắc Kinh từ chối lập quan điểm của mình theo các điều
khoản của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), trong đó Trung Quốc là
một bên ký kết. Thay vào đó, họ vạch ra “đường 9 đoạn” và thường xuyên lặp lại
tuyên bố về cái mà họ cho là chủ quyền không thể tranh cãi đối với tất cả các
hòn đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận. Xét tới những hành vi ứng xử thực
tế của các quan chức Chính phủ Trung Quốc và các đội tàu đánh cá được huy động
tham gia lực lượng quân sự của nước này ở Biển Đông, có thể thấy Bắc Kinh dường
như đang cân nhắc coi phần lớn vùng biển này là lãnh hải của họ. Theo UNCLOS,
các tàu chiến nước ngoài được phép đi qua mà không gây hại tới các vùng lãnh hải
của các nước, nhưng Trung Quốc thường xuyên lên án việc các tàu chiến Mỹ đi qua
khu vực Biển Đông. Các hành động của Trung Quốc cho thấy Bắc Kinh tin rằng nước
này có quyền đưa ra các quy định ở Biển Đông, sở hữu các nguồn tài nguyên ở biển
và ngăn chặn máy bay và tàu chiến nước ngoài.
Thành công của Trung Quốc
bắt nguồn chủ yếu từ ba đặc điểm trong chính sách Biển Đông của nước này. Thứ
nhất là ảnh hưởng đòn bẩy. Để đạt được các mục tiêu chính trị, Bắc Kinh đã lợi
dụng ưu thế là một nước lớn mạnh hơn so với các đối thủ. Trung Quốc đã khai
thác sức mạnh công nghiệp, đặc biệt là năng lực đóng tàu, để triển khai đến Biển
Đông một lực lượng gồm các tàu chiến, tàu hải cảnh và máy bay quân sự đông đảo
hơn bất kỳ nước nào có tuyên bố chủ quyền ở đây. Hơn nữa, Bắc Kinh thường xuyên
kêu gọi các đội tàu đánh cá dân sự của mình, vốn hùng hậu nhất ở Biển Đông, thực
hiện sứ mệnh hỗ trợ các mục tiêu chiến lược quốc gia. Quan điểm của Bắc Kinh về
các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông dựa trên nguyên tắc song
phương, giữa Trung Quốc với một nước khác có yêu sách, và sức mạnh vượt trội của
Trung Quốc. Trung Quốc lớn mạnh hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ nào có yêu sách
và điều này tạo lợi thế cho họ trong các cuộc đàm phán. Bắc Kinh phản đối mạnh
mẽ bất kỳ gợi ý nào về các cuộc đàm phán đa phương, vốn cho phép ít nhất hai nước
có yêu sách phối hợp với nhau để đối trọng với Trung Quốc. Sự phụ thuộc của các
nước trong khu vực vào thương mại và đầu tư của Trung Quốc đã đặt Bắc Kinh vào
vị thế có thể yêu cầu các bên làm theo ý mình. Ảnh hưởng của Trung Quốc thể hiện
rõ trong việc Campuchia ngăn chặn những chỉ trích về các hành động của Trung Quốc
ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đã gây sức ép kinh tế đối với Philippines trước
khi Tổng thống Duterte thể hiện ý định sẵn sàng đánh đổi cơ hội bảo vệ các
tuyên bố chủ quyền của nước mình để nhận thêm viện trợ kinh tế từ Bắc Kinh. Mặc
dù là nước mạnh nhất trong số các quốc gia bị coi là đối thủ của Trung Quốc vì
cũng có tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông, nhưng Việt Nam lại phụ thuộc vào
kinh tế Trung Quốc và do đó rơi vào những xung đột về lợi ích.
Đặc điểm thứ hai đóng góp
vào thành công của Trung Quốc là những cam kết giả tạo. Mặc dù tham gia các hoạt
động mang tính côn đồ ở Biển Đông, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn luôn cam kết
tuân thủ nguyên tắc hòa bình, hài hòa và đạo đức. Bắc Kinh luôn tuyên bố rằng
Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một quốc gia yêu chuộng hòa
bình và không xâm lược hay bắt nạt các nước khác, ngay cả khi là một siêu cường.
Để chứng minh điều này, Bắc Kinh đã thể hiện sự ủng hộ đối với việc giảm bớt
căng thẳng, ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm
2002 và tham gia các cuộc đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Những hành động này nhằm
che đậy ý định thực sự của Trung Quốc và dẫn tới quan điểm lạc quan thiếu căn cứ
rằng các ví dụ về hành vi ứng xử hung hăng của Trung Quốc là những hiện tượng bất
thường, bị giới hạn trong một số trường hợp cụ thể hay do một bên nào đó thực
hiện mà chưa được phép của Bắc Kinh. Sự nhìn nhận vấn đề theo hướng này sẽ làm
gia tăng bất đồng giữa các nước trong khu vực về cách thức đối phó với Trung Quốc,
tạo cơ hội cho Bắc Kinh gây chia rẽ và chinh phục các nước.
Tuy nhiên, cách giải
thích thuyết phục hơn gồm hai ý. Một là, Bắc Kinh có lợi ích rõ ràng trong việc
che giấu các hành động của mình dưới vỏ bọc nhân từ nhằm hạn chế sự hợp tác an
ninh giữa các nước đang cảm thấy bị đe dọa và muốn chống lại Trung Quốc. Hai
là, do tư tưởng văn hóa-chính trị truyền thống và quyết tâm cai trị, Trung Quốc
cảm thấy sức ép buộc họ phải duy trì vai trò lãnh đạo hợp pháp của mình ở trong
nước. Điều này dẫn tới việc Chính phủ Trung Quốc khăng khăng cho rằng thế giới
không có gì phải lo ngại về chính sách đối ngoại của họ, ngay cả khi sự bất an
của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở trong nước đã thúc đẩy Bắc Kinh thể hiện các
quan điểm dân tộc chủ nghĩa khiến căng thẳng với các nước khác gia tăng.
Do vậy, những sự bảo đảm
mà Bắc Kinh đưa ra xét cho cùng đều không có cơ sở. DOC bao gồm các cam kết
không đưa người đến sinh sống trên các cấu trúc địa hình hiện không có người ở
và không tham gia các hoạt động gây căng thẳng hay làm leo thang xung đột, những
điều mà Trung Quốc rõ ràng đã phớt lờ khi đổ cát lên các rạn san hô để xây dựng
các căn cứ quân sự ở một khu vực rộng tới hơn 1.200 ha. Trong khi đó, các cuộc
đàm phán về COC đã kéo dài 24 năm và Bắc Kinh vẫn phản đối những từ ngữ mà có
thể vô hiệu hóa các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời thúc đẩy một
điều khoản hạn chế các hoạt động quân sự của Mỹ ở Biển Đông. Các tàu thuyền của
Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn được nhiều nước chấp nhận về
các hành vi chuyên nghiệp và an toàn theo quy định của Công ước quốc tế năm
1972 về việc ngăn chặn các vụ va chạm trên biển và Bộ quy tắc tránh va chạm
ngoài ý muốn trên biển (CUES) năm 2014. Ví dụ điển hình là việc các quan chức
Trung Quốc bác bỏ mọi hành vi sai trái của nước này ở Biển Đông, ngay cả khi đối
mặt với những thực tế phản ánh điều ngược lại như việc tàu Trung Quốc cắt đứt
dây cáp của các tàu nước khác năm 2011.
Đặc điểm thứ ba là điều
chỉnhcác hành vi hung hăng. Trung Quốc kiên trì thúc đẩy các lợi ích của nước
này ở Biển Đông, gây phương hại đến lợi ích của các nước khác. Tuy nhiên, Bắc
Kinh đã thận trọng lựa chọn địa điểm, thời điểm và phương thức gây áp lực để hạn
chế tối đa các phản ứng trái ngược. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhận định
chính xác rằng Mỹ sẽ không gây chiến với Trung Quốc để ngăn chặn việc nước này
xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo đá chiếm đóng. Việt Nam là nước có
tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông bị thiệt hại nhiều nhất do các cuộc tấn công bạo
lực của Trung Quốc. Việt Nam không có thỏa thuận hợp tác an ninh với Mỹ. Bắc
Kinh đã lựa chọn tháng 4/2020, thời điểm đỉnh dịch, để đưa ra tuyên bố về cái
mà các phương tiện truyền thông của nước này gọi là “động thái hành chính quan
trọng” - thành lập hai quận mới ở Biển Đông, trong đó có một quận quản lý cả
khu vực đảo Trung Sa, vốn trên thực tế là một đảo san hô chìm cách mặt biển từ
9-18 m.
Chính phủ Trung Quốc tổ
chức lực lượng thành ba cấp độ để thực thi chính sách trên biển: tàu Hải quân
PLA, tàu hải cảnh và các tàu đánh cá dân sự. Nhìn chung, Trung Quốc sẽ chỉ sử dụng
lực lượng ở cấp độ thấp nhất để hoàn thành nhiệm vụ nhằm giảm dần ấn tượng của
các nước về họ như một nước chuyên bắt nạt. Ví dụ, trong những tháng gần đây, một
loạt tàu đánh cá của Trung Quốc, tắt hết các hệ thống tiếp sóng vô tuyến và
không tham gia đánh bắt cá, đã bao vây đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng
trong một nỗ lực rõ ràng nhằm đe dọa Manila và buộc họ phải rút lui.
Chiến thuật đâm đụng phổ
biến hiện nay của Trung Quốc ít có tính khiêu khích hơn so với việc nổ súng và
thường tỏ ra hiệu quả trong việc giành chiến thắng trên biển. Thậm chí, các tàu
Trung Quốc đã nhiều lần đe dọa đụng độ để xua đuổi các tàu chiến của Hải quân Mỹ.
Việc Trung Quốc sử dụng tia laser để quấy nhiễu máy bay của các nước khác là một
biểu hiện mới của hành vi ứng xử của Bắc Kinh. Các tia laser gây nguy hiểm cho
các máy bay chứ không trực tiếp gây chết người. Chính sách hiện nay của Trung
Quốc là tiến hành và bác bỏ. Sau khi Hải quân Mỹ cáo buộc một tàu khu trục của
Trung Quốc đã chiếu tia laser vào máy bay P-8 của Mỹ hồi tháng 2/2020 khi máy
bay này đang bay qua không phận quốc tế trên biển Philippines, Bộ Quốc phòng
Trung Quốc bác bỏ và cho rằng đó là một cáo buộc vô căn cứ. Vài ngày sau đó, tờ
“Thời báo Hoàn cầu” trực thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng tải một bài viết,
trong đó các chuyên gia quân sự Trung Quốc ủng hộ việc sử dụng tia laser để xua
đuổi tàu chiến Mỹ khỏi khu vực Biển Đông.
Những đặc điểm này cũng
được thể hiện rõ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cụ thể là việc cam
kết ủng hộ hòa bình và công lý, lên tiếng bác bỏ các hành vi ứng xử mang tính
côn đồ hay các chính sách làm tổn hại các nước khác, ủng hộ chiến thuật bầy đàn
và tấn công bằng tia laser ở biển Hoa Đông, gây sức ép kinh tế và đe dọa trừng
phạt các nước khác vì đã thách thức lập trường của Trung Quốc về các vấn đề như
Đài Loan, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đặc quyền của Trung Quốc như một
nước lớn, hay bắt giữ Giám đốc tài chính của tập đoàn Hoa Vi Mạnh Vãn Châu.
Việc thay đổi quỹ đạo
trên Biển Đông đòi hỏi các nước trong khu vực sẽ phải nỗ lực hơn nữa để xác định
liệu nguy cơ dài hạn của việc Trung Quốc sở hữu tuyến đường biển quan trọng này
có vượt xa những rủi ro về kinh tế lẫn quân sự hay không và có lập trường mạnh
mẽ hơn trong việc chống lại sự xâm chiếm của Trung Quốc. Nếu được lựa chọn, Mỹ
có thể đóng một vai trò quan trọng mang tính xây dựng bằng cách: một là đi đầu
trong việc phản đối các hành động của Trung Quốc, vốn đi ngược lại UNCLOS và
phán quyết của PCA năm 2016; và hai là nỗ lực xây dựng một giải pháp toàn diện
đối với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông mà ít nhất sẽ thách thức và cô lập Trung
Quốc, thay vì cho phép nước này chiếm ưu thế bằng cách lợi dụng sự lơ đễnh của
cộng đồng quốc tế. Nếu không lựa chọn Mỹ, khu vực này hẳn là đang đánh cược rằng
Trung Quốc sẽ không sử dụng quyền kiểm soát đối với Biển Đông để thúc đẩy các lợi
ích của mình và trừng phạt các đối thủ.
Denny Roy, nghiên cứu viên cao cấp, giám sát viên tại
Chương trình học bổng Posco, Chương trình Nghiên cứu tại Trung tâm Đông-Tây.
Bài viết được đăng trên The National Interest.
Minh Anh (gt)
------------------------------
NGUỒN :
May 7, 2020
No comments:
Post a Comment