TS Hoàng Chí Hiếu
Gửi tới BBC từ Huế
Cập nhật: 08:40 GMT -
thứ bảy, 15 tháng 2, 2014
Một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc đánh Việt
Nam năm 1979 có thể xuất phát từ tưởng tượng của Bắc Kinh về nguy cơ bị bao vây
bởi “vòng cung chữ C” trong lúc đường biển ra thế giới chưa được Mỹ dỡ bỏ.
Từ nửa sau thập niên 70 của thế
kỉ 20, bước ra khỏi Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc tập trung vào thực hiện Bốn
hiện đại hóa, đẩy mạnh chống Liên Xô và thúc đẩy quan hệ chiến lược với Mỹ,
Nhật và Tây Âu nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật.
Tuy quan hệ với Mỹ đang đi đến
chặng cuối của tiến trình bình thường hóa song cửa ra thế giới bằng đường biển
của Trung Quốc còn bị bịt chặt. Từ Alaska xuống Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Philippines và Singapore là chuỗi dài căn cứ quân sự của Mỹ và đồng minh Mỹ.
Đó là chưa kể sự hiện diện bước
đầu của hải quân Liên Xô tại cảng Cam Ranh là mối đe dọa thường trực đối với
hạm đội Nam Hải của Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình gặp lại Jimmy Carter năm 1987
nhưng từ 1978-79 trước đó, Bắc Kinh đã có quan hệ thắm thiết với
Washington
Vòng cung bao vây
Trên đất liền, với chiều dài
22.143,34 km, tiếp giáp với 11 quốc gia, ngoại trừ Pakistan có quan hệ tốt,
phần lớn đường biên giới của Trung Quốc tiếp giáp Liên Xô và đồng minh Liên Xô
như Mông Cổ, Ấn Độ và Việt Nam, khiến Trung Quốc không khỏi suy tưởng về một
hình thế bị bao vây bởi một vòng cung lớn hình chữ C.
Điểm khởi đầu của vòng cung này
là biên giới Liên Xô - Bắc Triều Tiên, chạy xuyên suốt lãnh thổ Liên Xô ở châu
Á, băng qua Mông Cổ, vòng theo đường biên giới phía Tây của Trung Quốc xuống
Nam Á, qua Đông Nam Á đến điểm cuối là Việt Nam.
Mối nguy cơ bị Liên Xô bao vây
của Trung Quốc ngày càng tăng, nhất là trước những diễn biến ở Afghanistanvà
Campuchia trong những năm 1978-1979.
Ở Afghanistan, dưới sự hậu
thuẫn của Liên Xô, ngày 27-4-1978, Đảng PDPA Mác-xít lật đổ chính quyền độc tài
Daoud, lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ Afghanistan.
Tháng 5-1978, chính phủ Kabul
ký kết thỏa thuận với Moskva về việc gửi 400 cố vấn quân sự Liên Xô tới
Afghanistan. Tháng 12-1978, Moskva và Kabul ký một hiệp ước hữu nghị và hợp tác
song phương cho phép quân đội Liên Xô triển khai trong trường hợp có sự yêu cầu
từ phía Cộng hòa Dân chủ Afghanistan.
Viện trợ quân sự Liên Xô gia
tăng và chế độ PDPA dần lệ thuộc vào các thiết bị quân sự và cố vấn Liên Xô.
Ở Campuchia, sau khi lên cầm
quyền (tháng 4-1975), lực lượng Khmer Đỏ một mặt thực thi chính sách “tự diệt
chủng” ở trong nước, mặt khác tiến hành cuộc chiến tranh chống các nước láng
giềng, trong đó tập trung vào Việt Nam.
Với thiện chí hòa bình, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần bày tỏ mong muốn chấm dứt xung đột bằng con
đường thương lượng hòa bình song phía Campuchia Dân chủ tìm mọi cách khước từ.
Điều đáng nói là hành động
chống Việt Nam trên đây của phe Khmer Đỏ là nhờ có được sự hậu thuẫn tích cực
của Trung Quốc.
Thời kì “đu dây” giữa Liên Xô
và Trung Quốc của Việt Nam không còn nữa.
Việt Nam buộc phải có sự lựa
chọn. Trước những sức ép từ phía Trung Quốc, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương
trợ kinh tế (6-1978) và kí kết hiệp ước hữu nghị toàn diện với Liên Xô
(11-1978).
Ngày23-12-1978, cuộc chiến
tranh trên biên giới Tây Nam nổ ra. Ngày 7-1-1979, quân đội Việt Nam tiến vào
giải phóng Phnom Penh.
Trước những diễn biến ở
Afghanistan và Campuchia, Trung Quốc không thể không lo ngại. Trong nỗ lực xích
lại gần Mỹ, Trung Quốc ngày càng mâu thuẫn sâu sắc với Liên Xô.
Với việc Liên Xô gia tăng ảnh
hưởng ở Afghanistan, Ấn Độ từ sau Chiến tranh 1962 với Trung Quốc và cuộc chiến
1971 với Pakistan đã ngả hẳn về Liên Xô để đối đầu với Trung Quốc và đang có
ảnh hưởng mạnh mẽ ở Bangladesh.
Cùng lúc, Việt Nam đưa quân
sang Campuchia và có những va chạm trên biên giới với Thái Lan khi truy kích
quân Khmer Đỏ, dường như đối với Trung Quốc, các gạch nối của “vòng cung chữ C”
đã dần được khép kín.
Để phá bỏ “vòng vây” đó, Trung
Quốc tiến hành hàng loạt bước đi.
Mục tiêu chiến lược
Khi sức mạnh quân sự không đủ
để đối đầu với Liên Xô thì việc chọn Việt Nam là đối tượng thích hợp và nếu
thắng được Việt Nam, Trung Quốc sẽ đạt được nhiều mục tiêu chiến lược.
Ngày 7-12-1978, Quân ủy Trung
Quốc thông qua quyết định tấn công Việt Nam.
Ngày 17-2-1979, hơn 60 vạn quân
Trung Quốc mở cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới Việt Nam. Đến ngày
5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân và đến ngày 18-2 thì rút hết.
Trước tình hình đó, với tư cách
là siêu cường đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, không như cam kết tại Điều 6 của
Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác Liên Xô - Việt Nam, ngoài việc ra tuyên bố lên án
hành động xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, phía Liên Xô thực hiện cuộc tập
trận trên biên giới với Trung Quốc, cử đoàn chuyên gia quân sự đến Hà Nội, viện
trợ khẩn cấp một số vũ khí, lập cầu hàng không vận chuyển Quân đoàn II từ
Campuchia về, điều động các tàu chiến đến Biển Đông.
Tương tự như đối với cuộc chiến
tranh Triều Tiên năm 1950, sự can thiệp của Liên Xô chỉ dừng lại ở những hành
động mang tính hỗ trợ mà không phải là sự tham chiến như phía Việt Nam mong
muốn hay như Trung Quốc chờ đợi.
Giới hạn của lợi ích dân tộc đã
giữ Liên Xô dừng lại ở đó.
Như vậy, trên thực tế, mức độ
can thiệp của Liên Xô vào cuộc chiến mà Trung Quốc phát động là không lớn như
giới cầm quyền nước này đã lầm tưởng.
Cái giá phải trả cho nhận thức
sai lầm của Trung Quốc là quá lớn bởi những thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam.
Tuy nhiên, nó mang lại hệ quả
tích cực cho quốc gia này là xóa bỏ được mối lo ngại về nguy cơ bị bao vây từ
phía Liên Xô, để từ đó tập trung nỗ lực vào thực hiện công cuộc cải cách, mở
cửa và nhanh chóng đạt được những thành tựu lớn lao.
Bài viết thể hiện quan
điềm riêng của tiến sỹ Hoàng Chí Hiếu, Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Huế.
No comments:
Post a Comment