12:29:am 15/02/14
Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị
hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là
côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các
đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự
Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không
bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của
ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là
“hooligan” – tức du côn, côn đồ.”
Tại
sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?
Đảng CS Trung Quốc hy sinh quá nhiều cho đảng CSVN.
Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong
cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương
máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at
War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320
ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam
giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã
lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc
Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy
xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn
hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá,
cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam
có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965
và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng
số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc
hiện diện”.
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc
giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông
Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi
nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các
lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính
xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN
sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ
Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng
CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như
một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4,
1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân
trực tiếp tham chiến.
Xung
đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều
Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ
quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng
đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về
số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do
chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có
thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông
Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang
Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam
từ ngã Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm
Trung Quốc khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh
Việt Nam để củng cố quyền lực
Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi
sợ bị bao vây
Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ
các lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của
mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu
các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của
đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong
tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn
đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của
họ Phạm vào năm 1968.
Chu Ân Lai: “Trong
một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung
Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”.
Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế
quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”.
Chu Ân Lai: “Đó
chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”.
Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem
lại những thành quả chưa từng thấy”.
Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.
Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế
thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một
đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu
Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây
như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà
là một thực tế đầy nguy hiểm.
Cambodia,
giọt nước tràn ly
Không những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng
biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam
và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng
Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi
một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở
rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS
Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng.
Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng
bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y
vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và
tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều
khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia
đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN.
Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích
bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn
phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.
Quyết
định của Đặng Tiểu Bình
Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẻ
trong nội bộ Bộ Chính Trị, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết
định của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng
Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam.
Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào
Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối
trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam
qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng
Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng
Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng
Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một
người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó
khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm
1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm
được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục
các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.
Lên
đường thuyết khách tìm đồng minh
Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện
một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung
Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như
Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm
viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là
mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại
Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến
riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ
hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với
nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng
hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình
Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ
của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea.
Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm
Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương
Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung
Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12, Đặng
báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể
thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính
bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn
Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong
các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ
khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì
Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.
Chính
thức viếng thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường
chính thức viếng thăm Mỹ. Y nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng
minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không có gì chắc chắn
Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở
Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ trong vài giờ sau
khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống
Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc
nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa,
Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ,
ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance
và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo
cho TT Mỹ biết Trung Quốc đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô
bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của
Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng
nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.
Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Quốc cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter,
Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ
Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch
viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt
các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt
Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái
các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành
quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với
tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng
dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu
xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ
bị trừng phạt.”
Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT
Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ
không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy
ra trong vòng giới hạn.
Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công
khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống
Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên
Xô” đã đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô
trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận
đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền
thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.
Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng
định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một
thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án
Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận
động sự ủng hộ của Nhật.
Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2,
1979 Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm
và mục tiêu của cuộc tâ;n công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình
xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công
Việt Nam.
Lãnh
đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên giới?
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết
từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã
bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào
cũng không nở lòng đem quân đánh đàn em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh
Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể
một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ
[Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như
thế.”
Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên
giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến
Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát
việc động binh ồ ạt của Trung Quốc và cũng không xác định được hướng nào là
trục tiến quân chính của quân Trung Quốc. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái
đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979 “Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để
chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước
đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin
“nước xã hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ.
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể
cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam
vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các
nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn
chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã
hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân
đội Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese
Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều
Tiên mấy chục năm trước.
Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một
cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh
niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo
vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh
đến người lính cuối cùng.
Bài
học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979
Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện
nay sẳn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả
việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ
đầu (preemptive policy).
Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với
Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta
phải chặt đứt ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như
kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry
Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On
China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh
phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của
Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân
sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á”
và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo
dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng
độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định
trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói
rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải
gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra
tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối
thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại
Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực
thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người
có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính
trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết
chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt
việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử
đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt
qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai
của các thế hệ con cháu mai sau.
Trần
Trung Đạo
----------------------------------
Tham
khảo:
- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
- A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
- Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
- “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
- Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
- A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
- Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
- “Côn đồ” Đặng Tiểu Bình trong quan hệ Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
- Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên, Trần Trung Đạo
----------------------------------
Cùng một
tác giả :
Từ
Hitler đến Đặng Tiểu Bình, tác hại của chủ nghĩa dân tộc cực đoan 04:15:pm 14/08/12
Hiểm
họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc 02:32:am 12/08/12
Hiểm
họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ 08:03:am 20/04/12
Từ
“Phạm Văn Đồng” tới “Thành Đô”, hai công hàm bán nước 10:29:am 10/01/12
No comments:
Post a Comment