Tiến sĩ Trần Công Trục
Gửi cho BBC từ Hà Nội
Cập nhật: 10:56 GMT -
thứ bảy, 8 tháng 2, 2014
Trong một bài viết mới đây trên BBC của Bấm
ông Lý Thái Hùng, phần "Ba việc cần làm" có đưa ra ý kiến Việt
Nam cần "chính thức tuyên bố hủy bỏ công hàm do cựu Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký năm 1958" khiến dư luận đặc biệt quan tâm, thậm chí nhiều người
cảm thấy hoang mang không biết thực hư, sai đúng như thế nào.
Chúng tôi đã trao đổi và đều
nhận định, ý kiến này của ông Lý Thái Hùng là một kiểu "xui dại" Việt
Nam tự chui đầu vào rọ cần phải được nói rõ, phân tích mổ xẻ trước dư luận.
Đầu tiên, theo luật pháp quốc
tế nếu như một chính thể đã chính thức công nhận một vấn đề thì không thể hủy
bỏ đơn phương một cách đơn giản như vậy là xong. Tiền hậu bất nhất là điều tối
kỵ khi đưa một vấn đề tranh chấp ra các cơ quan tài phán quốc tế.
Thứ hai, hiểu như ông Lý Thái
Hùng là đã làm sai lệch bản chất pháp lý của Công hàm 1958 do Thủ tướng Phạm
Văn Đồng ký gửi Trung Quốc. Bản Công hàm này chỉ ủng hộ và thừa nhận phạm vi
lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc vừa tuyên bố, không có chữ nào nhắc đến 2 quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà Bắc Kinh yêu sách chủ quyền với tên
gọi Tây Sa, Nam Sa.
Mặt khác, theo Hiệp định quốc
tế Geneva 1954 bàn về vấn đề Đông Dương mà chính Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung
Quốc khi đó cũng tham dự với tư cách một bên hội nghị thì mọi người đều biết
Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị, một chủ thể trong quan hệ quốc tế
được quốc tế công nhận .Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa là đại diện cho nhà nước Việt
Nam, dân tộc Việt Nam để quản lý và thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam do chính phủ Pháp bàn giao lại, chờ đến ngày tổng
tuyển cử thống nhất đất nước.
Do đó, Công hàm 1958 của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đại diện cho Việt Nam Dân chủ cộng hòa công nhận tuyên bố
phạm vi lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc không liên quan gì đến 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, càng không có nghĩa là Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc; bởi thời điểm này 2 quần đảo đang do
chính thể Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho nhà nước Việt Nam quản lý, thực thi
chủ quyền.
Cách lý giải Công hàm 1958 do
Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký như ông Lý Thái Hùng chính là chiêu bài Bắc Kinh
đang cố tình lập lờ đánh lận con đen để ngụy biện cho tham vọng bành trướng
lãnh thổ của họ và bẫy dụ chúng ta vào tròng. Một khi nghe theo lời xúi dại
này, Việt Nam sẽ không bao giờ thoát ra khỏi thòng lọng pháp lý của Bắc Kinh
đang giăng sẵn.
Thủ tục pháp lý
Nhân đây, chúng tôi cũng xin đề
cập đến thủ tục pháp lý ký và phê chuẩn các Hiệp ước, Công ước có liên quan đến
biên giới lãnh thổ quốc gia. Trong thực tiễn quốc tế, các nội dung giải quyết
về biên giới, lãnh thổ phải được các đại diện có thẩm quyền của các quốc gia
liên quan đàm phán thỏa thuận và nội dung thỏa thuận đó phải được ghi nhận
trong các Hiệp ước, Hiệp định…và phải được cac đại diện có thẩm quyền này ký
kết chính thức.
Tuy nhiên các Hiệp định, Hiệp
ước…dù đã được ký kết này vẫn chưa có hiệu lực thi hành ngay. Các Hiệp ước,
Hiệp định này phải được Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất phê chuẩn theo thủ
tục pháp lý rất chặt chẽ mới có hiệu lực thi hành. Như vậy, có thể thấy rằng
các tuyên bố, các văn bản của một nhân vật nào đó, dù là những quan chức nhà
nước cao nhất, có nội dung về biên giới lãnh thổ đều không có giá trị pháp lý
tuyệt đối trong quan hệ quốc tế.
Ngoài ra, cũng trong phần nội
dung "Ba việc cần làm" của bài viết ông Lý Thái Hùng gửi BBC đã có
một sự nhầm lẫn nguy hiểm về bản chất pháp lý vụ Philippines kiện Trung Quốc và
bài học cho Việt Nam.
Ông Hùng cho rằng, "Việc
hủy bỏ Công hàm cùng với việc quảng bá Tuyên Cáo của Chính Phủ Việt Nam Cộng
Hòa ngày 14 tháng 2 năm 1974, xác định “quần đảo Hoàng sa và Trường sa là những
phần bất khả phân lìa của lãnh thổ Việt Nam”, sẽ giúp Việt Nam có đủ cơ sở pháp
lý để kiện Bắc Kinh ra toà án Liên Hiệp Quốc như Phi Luật Tân đang làm". Ở
đây cần phải nhấn mạnh rằng, Philippines không kiện Trung Quốc về chủ quyền
lãnh thổ, bởi tranh chấp chủ quyền nếu các bên không thống nhất bằng văn bản
thỏa thuận mà đơn phương nhờ cơ quan tài phán giải quyết thì không ai dám thụ
lý.
Philippines kiện Trung Quốc
"áp dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS)”, vì vậy đã xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các nước ven Biển
Đông, trong đó có Philippines, mặt khác Trung Quốc lại là thành viên của UNCLOS
nên Philippines hoàn toàn có quyền khởi kiện vấn đề này theo đúng quy định của
luật pháp quốc tế. Và trên thực tế Tòa án Quốc tế về Luật Biển đã thụ lý theo
đúng thủ tục, trình tự pháp định.
Do đó, dù xác định đấu tranh
với Trung Quốc bằng pháp lý nhưng chúng ta cũng phải học Philippines nghiên cứu
thật kỹ các quy định pháp lý và thông lệ quốc tế để đưa ra quyết định và chuẩn
bị phương án khởi kiện, việc này không dễ dàng để cứ nói thích kiện là kiện
được ngay.
Tác giả nguyên là Trưởng ban
Biên giới Chính phủ Việt Nam từ năm 1995 -2004.
-----------------------------
Lý Thái Hùng
Gửi cho BBC từ California, Hoa
Kỳ
Cập nhật: 13:44 GMT -
thứ năm, 16 tháng 1, 2014
Đánh dấu 40 năm ngày quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh
chiếm trước sự chiến đấu hào hùng của Hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ
ngày 17 đến 19/01/1974, người Việt Nam ở trong và ngoài nước cũng không quên
cảnh giác trước những hành động xâm lấn vô lối mang tính leo thang mới đây của
lãnh đạo Bắc Kinh để có những đối sách phù hợp.
Đầu năm 2014, chính quyền đảo
Hải Nam của Trung Quốc loan báo hai quyết định phi lý tăng cường quyền hạn cảnh
sát của họ trên Biển Đông, bắt buộc tàu đánh cá "nước ngoài" phải xin
phép khi vào hoạt động trong vùng biển mà Bắc Kinh tự cho là của họ qua đường
lưỡi bò chín khúc. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.
Bắc Kinh còn ngang ngược cho
phép lực lượng tuần tra của họ tịch thu không những tất cả hải sản mà ngư dân
đánh bắt được mà còn vơ vét hết những thiết bị trên tàu và phạt mỗi ngư dân là
500 ngàn nhân dân tệ, tương đương với hơn 80 ngàn Mỹ Kim.
Những hành động ngang ngược và
phi lý của Bắc Kinh nói trên cho thấy là 40 năm qua, kể từ sau khi xâm chiếm
quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã không thỏa mãn những gì họ đã và đang cưỡng
chiếm mà tiếp tục muốn làm bá chủ biển Đông.
Nói cách khác, sau 40 năm nhìn
lại, Trung Quốc đã cố tình xâm chiếm Hoàng Sa để làm bàn đạp, gây tranh chấp
khắp khu vực, và cuối cùng buộc các nước phải “xin phép” họ qua lại trên biển
Đông. Việt Nam do đó, cần học hỏi gì từ quá khứ và có hành động thiết thân, phù
hợp hiện nay.
'Nhận thức 40 năm trước'
Trước hết, với sự kiện Trung
Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa bốn mươi năm về trước từ tay của Việt Nam
Cộng Hòa, qua các tài liệu về quân sử Việt Nam, cũng như các tài liệu của Hải
quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa, có thể thấy ngay lúc cuộc xâm lược nổ ra,
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã nhận thấy rõ dụng tâm lâu dài của Trung Quốc.
Theo đó, chính quyền Sài Gòn
nhận thấy vụ xâm chiếm Hoàng Sa chỉ là bước đầu trong ý đồ thu tóm biển Đông
theo kế hoạch được nhà cầm quyền Bắc Kinh tính toán từ trước. Nhưng do bối cảnh
chính trị phức tạp vào lúc đó, chính quyền Sài Gòn đã phải cân nhắc giữa hai
giải pháp: thương thảo bằng con đường ngoại giao hay quyết chiếnSau những liên
lạc yêu cầu lực lượng Trung Quốc rút lui không thành công, Việt Nam Cộng Hòa đã
chọn con đường quyết chiến dù lực lượng của Trung Quốc đông gấp bội.
Mặc dù Hoàng Sa bị mất, nhưng
ngày 19/01/1974, Việt Nam Cộng Hòa đã để lại một văn kiện lịch sử qua Tuyên Bố
của Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa vào lúc đó.
"Việc Trung Cộng ngày nay xâm phạm lãnh thổ
Việt Nam Cộng Hòa không những chỉ đe dọa chủ quyền an ninh của Việt Nam Cộng
Hòa mà còn là một hiểm họa đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á và toàn
thế giới..." tuyên
bố nói.
Và cũng qua nội dung của Tuyên
bố, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa khẳng định hai điều: một là Việt Nam có chủ
quyền rõ rệt trên quần đảo Hoàng Sa và Trung Quốc là 'tập đoàn xâm lược'.
Hai là việc Trung Quốc đánh
chiếm Hoàng Sa đã mở đầu một hiểm họa đe dọa nền hòa bình và sự ổn định của khu
vực Đông Nam Á và thế giới.
Rất tiếc là những cảnh báo của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã không được thế giới quan tâm.
Cuộc hải chiến hào hùng cũng đã
bị chôn vùi kể từ sau ngày 30/4/1975 và trong thời gian dài không hề được nhắc
đến chính thức dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngay cả trong
nhiều sách giáo khoa của học trò phổ thông.
Nhiều người từng tham dự vào
cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa còn bị tù cải tạo, nhiều thân nhân của những sĩ quan
và binh sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong trận chiến này đã phải sống
dưới chính sách kỳ thị như mọi nạn nhân khác có thân nhân là "ngụy quân
ngụy quyền".
Rất may là Cộng đồng người Việt
tại hải ngoại vẫn còn tưởng nhớ đến công ơn của những anh hùng hải quân đã vị
quốc vong thân để bảo vệ Hoàng Sa.
Những buổi lễ tưởng niệm đã
được tổ chức rất trang nghiêm vào mỗi dịp đầu năm suốt từ 1975 đến nay.
Chính những buổi lễ này đã góp
phần hun đúc ý chí và tinh thần bảo vệ bờ cõi, làm bừng lên ngọn lửa yêu nước
của người Việt Nam trước làn sóng xâm chiếm của Trung Quốc trên biển Đông ngày
nay.
'Chính sách thiếu nhất quán'
Đánh dấu 40 năm tưởng niệm trận
hải chiến Hoàng Sa năm nay, chính quyền Hà Nội đã có một số động thái đáng chú
ý.
Thứ nhất là cho phép một số báo, đài
truyền hình đề cập khá chi tiết và liên tục nhiều kỳ về trận hải chiến Hoàng Sa
năm 1974. Họ đã phỏng vấn và giới thiệu nhiều hồ sơ cũ của Việt Nam Cộng Hòa
ghi lại các chuẩn bị và diễn tiến của trận hải chiến.
Đây là một quyết định tuy quá
trễ, nhưng ít ra bây giờ nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thấy rằng việc trình
bày cho hậu thế hiểu rõ diễn tiến của một cuộc chiến bảo vệ hải đảo trước ý đồ
xâm lấn và bành trướng của Trung Quốc đã là điều cần thiết.
Không dám nói lên sự thật và
không dựa vào trận hải chiến hào hùng này, sẽ không có cơ sở vững chắc để
thuyết phục thế giới đứng về phía Việt Nam chống lại các ý đồ của Trung Quốc
hiện nay.
Thứ hai là ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ
tướng chính phủ cộng sản Việt Nam, đã tuyên bố rằng sẽ đưa vấn đề Hoàng sa và
Trường sa vào sách giáo khoa, cũng như tổ chức lớn tưởng niệm 40 năm Hoàng sa
và 35 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc.
Đây cũng là một quyết định quá
trễ và dường như mang âm hưởng của một sự “thăm dò” vì phát biểu này sau đó đã
bị kéo xuống khỏi các trang mạng do những e ngại “ngoại giao”.
Rõ ràng là có sự thiếu nhất
quán trong nội bộ lãnh đạo Cộng sản Việt Nam về các phản ứng liên quan đến
những vấn đề lịch sử đối với Trung Quốc. Khi lãnh đạo còn e ngại và muốn tránh
né đề cập một sự thật của lịch sử, thì rất khó thuyết phục người dân về thực
tâm bảo vệ đất nước của giới lãnh đạo hiện thời trong quan hệ với Trung Quốc.
Vấn đề còn lại là nhà cầm quyền
CSVN không nên và không còn có thể tiếp tục hành xử kiểu nửa nạc, nửa mỡ hay
tiếp tục đóng kịch chỉ khoác áo dân tộc như hiện nay nữa về toàn cảnh vấn đề
biển Đông.
Lý do là lối hành xử nửa vời
này không những có hại mà còn gây cản trở cho nỗ lực bảo vệ sự toàn vẹn biển
đảo, lãnh thổ của dân tộc.
'Ba việc cần làm '
Nhân tưởng niệm 40 năm Hoàng
Sa, thiết nghĩ lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cần mạnh dạn làm ba việc.
Thứ nhất, Chính thức tuyên bố hủy bỏ
công hàm do cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958.
Việc hủy bỏ Công hàm cùng với
việc quảng bá Tuyên Cáo của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 14 tháng 2 năm
1974, xác định “quần đảo Hoàng sa và Trường sa là những phần bất khả phân lìa
của lãnh thổ Việt Nam”, sẽ giúp Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý để kiện Bắc Kinh
ra toà án Liên Hiệp Quốc như Phi Luật Tân đang làm.
Nếu vụ kiện xảy ra, chắc chắn
là ngư dân Việt Nam không cần phải “xin phép” đánh cá trên vùng biển truyền thống
lâu đời của mình như Trung Quốc đang ra lệnh.
Thứ nhì, chính thức vinh danh những
người chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng
sa, và thiết lập một ngân quỹ để giúp đỡ cho thân nhân, con cháu của những
người đã vị quốc vong thân.
Nỗ lực này còn mang một ý nghĩa
quan trọng khác là người dân Việt Nam bất kể thế hệ nào đều phải ghi nhớ trận
hải chiến hào hùng của dân tộc, đặc biệt là chiến tích này đang gắn liền với
công cuộc bảo vệ bờ cõi hiện nay trước tai họa xâm lăng từ Trung Quốc.
Thứ ba, để cho người dân tự do lập ra
những nhóm, hội đoàn dưới nhiều hình thức như nghiên cứu pháp lý, thu thập tài
liệu lịch sử, gây quỹ, vận động quốc tế.... để đóng góp vào công cuộc bảo vệ
biển đảo.
Đây là công việc lâu dài, trải
qua nhiều thế hệ nên việc xã hội hóa các nỗ lực bảo vệ biển đảo phải để cho
người dân tham gia. Hơn thế nữa, đây là thời đại của mạng xã hội, việc liên kết
các cá nhân có cùng quan tâm và dùng nó như một sức mạnh áp đảo để buộc đối
phương phải ngưng những ý đồ xâm phạm, trở thành phương tiện tranh thủ rất hòa
bình và hiệu quả.
'Đáp lời sông núi'
Bốn mươi năm là khoảnh thời
gian rất ngắn trong chiều dài lịch sử. Nhưng 40 năm ý nghĩa của trận hải chiến
bảo vệ biển đảo – dù Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa – đã ghi khắc vào lòng
người Việt Nam một quyết định lịch sử: quyết chiến bảo vệ tổ quốc dù đối phương
mạnh hơn mình gấp bội.
Dù phải mất bao nhiêu năm nữa
cho đến lúc thu hồi lại chủ quyền biển đảo đã mất, trận hải chiến Hoàng Sa luôn
luôn nhắc nhở mọi thế hệ Việt Nam rằng không thể ủy nhiệm cho bất cứ ai lo bảo
vệ bờ cõi, mà mọi người đều phải có bổn phận và nghĩa vụ như nhau để đáp lời
sông núi.
Sự kiện một số nhà dân chủ, một
số nhà hoạt động mạng tổ chức các buổi hội thảo về Hoàng Sa, thăm viếng và ủy
lạo cho những thân nhân các chiến sĩ hải quân đã hy sinh là một nỗ lực đáng ca
ngợi.
Chính tinh thần này đã đánh
thức mọi người cùng nhau nhìn về biển Đông, trước hết là làm sao bảo vệ ngư dân
Việt có thể tự do và an toàn đánh bắt hải sản trước lệnh phải “xin phép” ngược
đời của Trung Quốc tung ra hiện nay.
Song song, cần tranh thủ hậu
thuẫn của thế giới và các quốc gia láng giềng chống lại ý đồ bá quyền của Trung
Quốc trên biển Đông.
Nếu chúng ta cùng tưởng niệm 40
Năm Hoàng Sa trong tinh thần đó, anh linh của 74 người con yêu nước Việt khoác
áo Hải quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ có thể mỉm cười yên giấc.
Bài viết thể hiện văn phong và
quan điểm riêng của ông Lý Thái Hùng, Tổng thư ký Đảng Việt Tân có trụ sở tại
Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment