Áo và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị Đức cưỡng chiếm
đầu tiên ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ. Trong lúc Đức chiếm Áo
không gây nhiều phản ứng vì Áo có nhiều liên hệ với Đức về lịch sử, ngôn ngữ,
văn hóa và chính bản thân Hitler vốn là người Áo, việc cưỡng chiếm Tiệp Khắc là
một biến cố lớn vì Tiệp Khắc là một nước độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
và được xem là một trong số mười cường quốc châu Âu thời đó.
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống trị
của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương vong, thiệt hại. Hàng
trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn người khác bị đày ải trong các trại
tập trung. Thế nhưng phải chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được
phát súng nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các thành
tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một trong sốt ít quốc gia
có một quân đội đông đảo nhất và được trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp
Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do
chính. Hai lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng đông là chủ
trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement
policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville
Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy
yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính
phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng Đông là chủ trương truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành cường
quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự,
dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel các khoa học gia Đức được tặng thưởng
trong giai đoạn 47 năm tồn tại nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học
gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực,
dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh. Giống như mọi
đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh cần phải có tài nguyên thiên
nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về mặt địa
lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng chủ trương các
quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là hàng rào an ninh
của Đức để đương đầu với hai nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938 không cần
dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm Tiệp Khắc bất chấp sự
chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham
Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên
không dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì vùng
Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn nhất của Tiệp
Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có
này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các các lãnh đạo
Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm
Tiệp Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các quốc
gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng
chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ
hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng
Nevill Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo,
Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng
Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức,
vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có
liên minh quân sự với Anh. Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của
Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman
thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ
như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên
bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill
Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết
giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939, thỏa hiệp Munich được ký
kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland
trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ
được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy
vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của
thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức
thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải gốc Đức
phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món
sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ
đó.
Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên
giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu
công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại giao lớn của
Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler
không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên
đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia, Moravia và phần còn
lại của Tiệp Khắc.
Cả
hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu
mọt và phản bội ngay trong lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém,
thiếu quyết tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng đầu là Konrad
Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc Đức.
Konrad Henlein và Hitler
Konrad
Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động
dưới danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh
tại Bohemia, Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten
của Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và
huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để trang trải các chi
phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938, Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và
đích thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp
Khắc không thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền
của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp
bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc
Đức đứng lên đòi quyền tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi chính phủ
Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay đổi chính sách đối ngoại
của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi
tự trị còn có thể đàm phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã
khó có thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và đảng của
y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp tục làm khó dễ chính phủ
trung ương cho đến khi hiệp ước Munich được ký kết. Ngày 1 tháng Mười năm 1938,
các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên giới Tiệp giữa tiếng hò
reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc đó hàng chục sư
đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh rút lui. Phía sau đoàn
quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời
gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng chống Hitler,
bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức và
tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất Tiệp, Konrad
Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên Tiệp Khắc. Y
được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc
được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y
đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Emil Hacha và Hitler
Kẻ
phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân
tổng thống Emil Hacha là một người nhu nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm
1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ
Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng
quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng
mọi phương tiện trong đó có cả việc không quân của Đức cày nát thủ đô Prague.
Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức
vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc
dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng
lén lút giúp cho phong trào kháng chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của
Edvard Benes nhưng công không đủ để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải
phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó
trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa
trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu
nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso và Hitler
Jozef
Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn giáo. Mặc dù
thụ phong linh mục nhưng y cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng
Nhân Dân Slovak. Lợi dụng sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng
Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc.
Vào 13 tháng Ba năm 1939, giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó,
Hitler triệu Jozef Tiso đến Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập,
tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm
đóng phần lãnh thổ còn lại của Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở
nên một cộng tác viên trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945,
Tiso là tổng thống bù nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y
lãnh đạo liên kết chặt chẽ với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do
Thái. Khi hồng quân Liên Xô tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị
bắt và bị kết án phản quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947.
Chính phủ Tiệp Khắc chôn y tại một nơi bí mật.
Chính
phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak
và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ
nhanh chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng trước
những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà ngay cả tại trong
nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại xâm, các sắc dân
Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo tổng kết của Giáo sư
Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các tài liệu thuộc văn khố
quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong giai đoạn đầu thù địch Đức Tiệp bùng
nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng không được trang bị đầy đủ trong lúc Tiệp Khắc có
35 sư đoàn thiện chiến và được trang bị một trăm phần trăm hỏa lực. Vào tuần lễ
thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã có một triệu quân với 34
sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân Đức để phối trí tại hành lang châu Âu
chỉ có từ khoảng 31 đến 36 sư đoàn. Về không quân, vào tháng Chín năm 1938, Đức
trội hơn Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay trong lúc Tiệp có gần 1000
chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ của ba nước cộng lại vượt xa
Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36 phi cơ chiến đấu đến Tiệp qua ngã
Rumania. Về chiến xa, tăng của Đức còn yếu hơn tăng của Tiệp Khắc. Ngoại trừ
loại tăng thuộc thế hệ Mark III có trang bị pháo 37 li, phần lớn tăng thế hệ
Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có mấy trăm xe tăng hạng nặng
38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến tranh quy
ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng kéo dài cuộc chiến
được một hai năm đủ thời gian cho quốc tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các
nước châu Âu vào ván cờ sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939,
Đức tịch thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn súng
máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã phải tốn hàng năm mới
sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật tiên
tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung hùng mạnh đã bị
Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn một viên đạn. Với một quân lực cả
triệu người và phương tiện đầy đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp
Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của nhiều khách lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn người
dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích chỉ bằng vài tạc đạn
và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch
thu, họ đã phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn
người Tiệp đã chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich. Tướng SS
Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau khi sáp nhập
vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất trong hàng tướng
lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư của kế hoạch tiêu
diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có trái tim
bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối tháng Năm năm
1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình nghi che giấu kháng
chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn chết, chỉ còn một ít
phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.
Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại nhiều bài
học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ
trương bành trướng xuống vùng Đông Á
Như đã trình bày trong bài "Hiểm
họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ", vì các lý do an ninh,
chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển Đông. Hai nỗi
lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên ngoài và diễn
biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật
vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan,
Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những
mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ
chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp
giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường
hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Tuy nhiên, khác với Đức Quốc
Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị
cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của
Việt Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục phát
triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia từ năm 1978, Đặng
Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam như trận
Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984,
Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên mặt
biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng ghe tàu, thành
lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt
Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những hành động lấn ép
đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không một Hội Đồng An Ninh
Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân
Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh
cá Trung Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những sự kiện ghe
tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ như Việt Nam
nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn
hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy
vọng gì các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn
tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương quốc
tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là rơi vào chiếc bẫy của
Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ
quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ
thấy. Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập niên 1970
cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần có một cuộc họp giữa hai
nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật
để chứng minh chủ quyền Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả
xe bằng chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo dài
thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS Trung Quốc lợi dụng chính sách
ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh
chấp Mỹ - Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình
bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời
Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ
rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng
là để bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách
nào hay dù có thái độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế
giới có phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một
giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã cần
chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương đầu với hàng loạt
khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc phát động một cuộc chiến tranh quy
mô ở Á châu và Thái Bình Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới
lãnh đạo CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung
Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân sách hải quân khổng
lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện
đang sống nhờ vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ nhất 1914-1918
dẫn đến tự sụp đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ
một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan
chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng trong
lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong lúc muốn duy trì
ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ
nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt
Nam. Tháng Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ tịch
Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác chào mừng. Trong buổi
tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước”. Khi trả
lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự
quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh
đến việc hai quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi căn bản của nhân
dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và phát triển thế
giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng Hòa,
Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công bố cho báo chí sau
đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không xứng đáng là một cường quốc vì
nhiều lý do và một trong những lý do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông
như là “quyền lợi chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc
gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã thực thi
chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối phó với Trung Quốc. Dĩ
nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời kết án này.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc
các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc cho ngoại bang và không quyết tâm
bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc
ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hổ tương bình đẳng và
cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu
tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường
quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những nước
mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy
Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được những nhược điểm khách quan và chủ quan
của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường
quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ Thổ Nhỉ Kỳ cần Anh
Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ Đài Loan cần Mỹ
nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.
Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam không giống như quan
hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo CSVN không có vị trí
độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi đưa ra đều phải đo
lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ nhau
một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai đảng gắn
bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm và hình
thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ trang
và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN
trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước
đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa nhận sự đóng
góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ Cộng sản tại Việt
Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng
nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước
năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Bài học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế chiến
thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân
tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70 triệu
người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và Kideki Tojo nhưng còn là
Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính
người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi
lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ
hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp như Ba Lan, Hungary cũng dự
phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã
không xảy ra hay xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày
đó không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân tộc cực
đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu của nhân loại yêu chuộng
hòa bình và công lý bởi vì lịch sử chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn
đến chiến tranh ngay cả trong trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn.
Chưa từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung Quốc là những
người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa cháy mạnh hay yếu tùy thuộc
vào nhiều yếu tố có khi không nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân tộc
yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai đoạn sau cách mạng
Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến
đẫm máu vùng Balkans giữa các nước thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã
đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế
giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một phần tư thế kỷ vừa
qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn là tìm
hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh Hitler với Đặng Tiểu
Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện
đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và
Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và
Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ nghĩa dân tộc như một
phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”, vẽ lên trong nhận thức con
người về “một loại đất nước huy hoàng tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức
mạnh kinh tế và tạo áp lực thường xuyên trên các nước yếu hơn trong vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ nhổ
Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân số 1.3 tỉ người
mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng
khiếp đến dường nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết
được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt Nam?
Như TT Lincoln từng nói “Một căn nhà tự chia rẽ,
căn nhà đó không thể đứng vững”. Nhìn lại Việt Nam, chưa bao giờ dân tộc
lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay. Một người Việt
quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều đó. Tuy nhiên, dù
có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể không đồng ý rằng,
để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên chính ra khỏi
cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng có, đó là quyền
làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và của dân tộc mình. Bởi
vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ, cường thịnh mới
mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
__________________________________
Tham khảo:
David
Faber, Munich, 1938 Appeasement and World War II, Simon & Schuster, New York 2009
William L. Shirer, The Rise and Fall of the Third
Reich, 1995
Mark
Mazower, Hitler ‘s Empire, How The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
Carl
K. Savich, Nationalism and War, MarkNews. com,
2008
Richard
J. Evan, The Third Reich in power, The Penguin
Press, New York 2005
History of Germany, Wikipedia, the free encyclopedia
Interview with Dr.
Carroll Quigley, Georgetown University, The Courier, December 12,
1952
Hitler’s Plan for
Eastern Europe, Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz
Leszczynski
World War II database, Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
Yang
Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholars, 2002
*
Bài liên quan đã đăng của Trần Trung Đạo:
-----------------------------------------------
TIN
LIÊN QUAN :
No comments:
Post a Comment