Thursday, 20 February 2014

ĐẶNG TIỂU BÌNH & QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG QUỐC TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH VỚI VIỆT NAM (Xiaoming Zhang - Journal of Cold War Studies)




Xiaoming Zhang   -   Journal of Cold War Studies

Biên dịch: Vũ Minh Hải | Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung
Posted on 18/02/2014 by Nghiên cứu Quốc tế

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (từ đây viết tắt là Trung Quốc) đã tham gia hai chiến dịch quân sự lớn – một ở Triều Tiên chống lại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1950 đến tháng 7 năm 1953, và hai là chiến tranh với Việt Nam năm 1979. Không may là ở Trung Quốc, cuộc chiến tranh với Việt Nam đã bị lịch sử lãng quên. Sự kiện này hiếm khi được thảo luận trên phương tiện truyền thông và các học giả ở Trung Quốc bị cấm nghiên cứu vấn đề này. Đến giữa những năm 1970, Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn là những đồng minh thân cận trong Chiến tranh Lạnh. Vậy tại sao vào cuối năm 1978 Trung Quốc lại quyết định tiến hành chiến tranh với Việt Nam?

Những nguồn tư liệu chính thức từ Trung Quốc đều không đưa ra được câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi này.Lý do ban đầu của Bắc Kinh đưa ra bao gồm “Giấc mộng xưng bá” tại Đông Nam Á của Hà Nội; hành vi xâm phạm biên giới Trung Quốc và cuộc tấn công sau đó vào lãnh thổ Trung Quốc; việc Hà Nội ngược đãi cộng đồng người Hoa sống ở Việt Nam; và quan hệ mật thiết của Việt Nam với Liên Xô vào thời điểm cường quốc này đang mở rộng ảnh hưởng đến Đông Nam Á.[1] Những nhà quan sát đương thời cũng như một vài nghiên cứu sau đó cho rằng mục tiêu thật sự của Bắc Kinh là chuyển hướng tập trung sức mạnh quân sự của Hà Nội khỏi Campuchia và giữ chân lực lượng Việt Nam ở mặt trận thứ hai.[2] Những nhà quan sát khác lại cho rằng việc Bắc Kinh sử dụng lực lượng quân đội tấn công Việt Nam là nhằm làm mất uy tín Liên Xô trong vai trò là một đồng minh đáng tin cậy của Việt Nam, đáp trả lại việc Việt Nam hợp tác với Liên Xô bao vây Trung Quốc từ phía Đông Nam Á.[3]

Quyết định gây chiến với Việt Nam của Trung Quốc được hình thành một phần do mối quan hệ xấu đi giữa Hà Nội với Bắc Kinh, bởi liên minh mới giữa Việt Nam với Liên Xô, và bởi vị thế bá quyền khu vực của Việt Nam, đồng thời nó cũng nảy sinh từ nỗ lực của Trung Quốc nhằm nâng cao vị trí chiến lược trên thế giới và đẩy mạnh chương trình cải cách kinh tế trong nước. Ba sự kiện diễn ra tại Bắc Kinh trong tháng 12 năm 1978 đã có tác động quan trọng đến quyết định chiến tranh của Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình trở lại hàng ngũ lãnh đạo cấp cao tại Hội nghị TW ba Khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Bắc Kinh thông qua quyết định đưa cải cách kinh tế làm ưu tiên hàng đầu của quốc gia, và việc Trung Quốc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ. Đặng được xem là kiến trúc sư trưởng của Trung Quốc về chiến lược quốc gia trong thời kỳ hậu Mao, đóng vai trò chính trong quyết định tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Các học giả hiện nay cũng thừa nhận vai trò của Đặng trong quyết định chiến tranh của Trung Quốc, nhưng đưa ra rất nhiều giả thuyết khác nhau cho quyết định này.

Phân tích của Gerald Segal năm 1985 cho rằng vận động chính trị trong giới lãnh đạo gần như không tác động đến quyết định của Trung Quốc, và những bất đồng cấp cao, nếu có, cũng không ảnh hưởng đến các chiến dịch quân sự của Trung Quốc.[4] King Chen lại đưa ra ý kiến trái chiều rằng quyết định đã được thực hiện sau “các cuộc tranh luận liên tục, kéo dài” tại Hội nghị Công tác Trung ương cuối năm 1978, và phong cách lãnh đạo của Đặng là “yếu tố không thể thiếu khi thuyết phục” Bộ Chính trị ĐCSTQ – khi đó đang bị chia rẽ sâu sắc – chấp thuận quyết định này.[5] Một nghiên cứu liên quan gần đây của Andrew Scobell khẳng định các nhà lãnh đạo dân sự và quân đội Trung Quốc đã chia thành phái ủng hộ và phản đối hành động quân sự chống Việt Nam và quá trình đưa ra quyết định chiến tranh là một phần của cuộc đấu tranh giành quyền kế thừa quyền lực trong giai đoạn chính trị hậu Mao của Trung Quốc.[6]

Nghiên cứu về quyết định của Trung Quốc tấn công Việt Nam gặp trở ngại do thiếu các tài liệu (chính thức) của Trung Quốc, nhưng khoảng trống này được bù đắp một phần nhờ số lượng nguồn tài liệu tiếng Trung (khác) tăng lên, đặc biệt là hồi ký của các quan chức quân đội cấp cao, cũng như các tài liệu được giải mật của Mỹ.[7] Phần đầu bài viết này tôi thảo luận về tiến trình một đề xuất của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (Giải phóng Quân Trung Quốc) về việc sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp biên giới với Việt Nam đã phát triển thành quyết định phát động một cuộc xâm lược quy mô lớn như thế nào. Sau đó, tôi đi vào nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố trong nước và quốc tế đến tư duy chiến lược của các lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, và quá trình hình thành quyết định chiến tranh.

Những yếu tố này bao gồm nỗ lực mới của Bắc Kinh nhằm đẩy mạnh cải cách kinh tế và mở cửa ra thế giới, các chính sách chống Trung Quốc của Việt Nam, việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia, và mối quan hệ liên minh Xô-Việt. Đặng dường như đã tin rằng quan hệ hợp tác chiến lược Xô-Việt là mối đe doạ đến Trung Quốc. Ông không chỉ hy vọng rằng quan hệ bình thường hoá với Hoa Kỳ sẽ cải thiện vị trí chiến lược của Trung Quốc và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong cải cách kinh tế với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ; mà ông ta còn trông đợi cuộc tấn công của Trung Quốc vào đồng minh của Liên Xô sẽ thuyết phục chính phủ Mỹ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng có lợi ích chung. Thắng lợi chính trị của Đặng ở Hội nghị Trung ương ba của ĐCSTQ đã củng cố vị trí của Đặng tại Trung Quốc và ngăn cản bất cứ ai muốn thách thức quyết định của ông ta – một quyết định sau này đã dẫn đến cuộc chiến tranh tốn kém và chết chóc. Nếu như trước khi đưa quân vào Triều Tiên Trung Quốc đã tiến hành nhiều cuộc thảo luận, thì ngược lại không hề có tranh cãi nghiêm trọng nào trong giới lãnh đạo cấp cao ở Bắc Kinh về quyết định chiến tranh với Việt Nam.[8] Tuy nhiên, quá trình tranh giành quyền lực trong nội bộ lãnh đạo đảng thực sự cũng có ảnh hưởng đến quyết định này.

Trung Quốc đáp trả các sự kiện biên giới

Sau chiến thắng của quân đội Bắc Việt Nam trước Nam Việt Nam năm 1975, các lãnh đạo ĐCSTQ tỏ ra ngày càng lo lắng về chính sách đối ngoại của Hà Nội. Người Trung Quốc e ngại ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Dương khi Hà Nội trở lên gần gũi hơn bao giờ hết với Mátxcơva do nhận viện trợ vật chất và cùng ý thức hệ.[9] Các lãnh đạo Trung Quốc cũng khó chịu với những nỗ lực của Hà Nội trong việc thiết lập mối quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, riêng Campuchia còn chịu áp lực quân sự gia tăng từ phía Việt Nam.[10] Có lẽ vấn đề quan trọng nhất là Bắc Kinh và Hà Nội đã xung đột về vấn đề lãnh thổ. Trong quá khứ, Trung Quốc đã vài lần xâm lược Việt Nam nhằm giành quyền thống trị khu vực nhưng không phải để chiếm giữ lãnh thổ (?). Về phần mình Việt Nam cho đến thời điểm đó chưa bao giờ thách thức các yêu sách về lãnh thổ của Trung Quốc (?). Tình hình bắt đầu thay đổi sau năm 1975 khi những tranh chấp biên giới trở thành vấn đề chính đối với Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc. Giải phóng Quân Trung Quốc đã ra lệnh cho hai tỉnh giáp biên giới và Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh và quân khu đảm bảo ổn định tình hình biên giới.[11] Mặc dù Bắc Kinh tuyên bố muốn giải quyết tranh chấp biên giới bằng hoà bình nhưng bạo lực ở biên giới vẫn gia tăng trong năm 1978.

Về phương diện lịch sử, những tranh chấp lãnh thổ là lý do phổ biến nhất cho chiến tranh giữa các nước.[12] Tuy nhiên, quyết định của Trung Quốc tấn công Việt Nam được hình thành do nhiều yếu tố đan xen. Bước đi đầu tiên của Trung Quốc về phía chiến tranh là khi Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân đáp trả các sự cố biên giới ngày càng gia tăng giữa lúc diễn ra những tranh cãi về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam giữa năm 1978. Vào ngày 12 tháng 8, quân đội Việt Nam đã bất ngờ tấn công một đội tuần tra biên giới của Trung Quốc gần Cửa khẩu Hữu nghị ở tỉnh Quảng Tây. Hai tuần sau đó cũng tại khu vực này, hơn 200 bộ đội Việt Nam đã chiếm đóng một đỉnh núi bên phía biên giới Trung Quốc và tăng cường thêm quân trấn giữ tại các cao điểm.[13] Các quan chức Trung Quốc xác định số lượng xung đột biên giới tăng từ 752 vụ năm 1977 lên 1.100 vụ năm 1978.[14] Quy mô của các vụ xung đột cũng lan rộng hơn. Đến trước tháng 8 năm 1978, hầu hết là những vụ đấu súng nhỏ với thương vong không đáng kể. Tính chất các vụ đụng độ vào tháng 8 tăng lên mức khốc liệt và chết người, cho thấy có sự tham gia của số lượng lớn quân đội Việt Nam. Từ tất cả những dấu hiệu trên cho thấy, xung đột biên giới leo thang là yếu tố đầu tiên thúc đẩy các nhà lãnh đạo Bắc Kinh xem xét phương án sử dụng lực lượng quân đội chống lại Việt Nam.

Vào tháng 9 năm1978, Bộ Tổng tham mưu đã tổ chức một cuộc họp tại Bắc Kinh về vấn đề “làm thế nào giải quyết phần lãnh thổ của chúng ta bị quân đội Việt Nam chiếm đóng”. Phó Tổng tham mưu trưởng Trương Tài Thiên (Zhang Caiqian) đã chủ trì cuộc họp với các sĩ quan từ Quân khu Quảng Châu và Côn Minh cũng như Cục tác chiến và Cục tình báo của Bộ Tổng tham mưu. Ngay từ đầu, Trương đã lưu ý rằng Bộ Tổng tham mưu phải tư vấn cho các lãnh đạo ĐCSTQ về cách thức đối phó với hành vi ngược đãi Hoa kiều của Hà Nội cùng những động thái khiêu khích ngày một tăng từ quân đội Việt Nam và lực lượng an ninh dọc theo biên giới Việt-Trung.[15] Ông ta đã đề cập đến hàng loạt sự kiện vào mùa hè năm 1978. Vào ngày 8 tháng 7, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ra lệnh cho lực lượng của mình theo đuổi một “chiến lược tấn công” chống lại Trung Quốc và phát động “cuộc tấn công và phản công trong và ngoài biên giới”.[16] Hai tuần sau đó, Hội nghị TW 4 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã xác định chủ nghĩa đế quốc Mỹ là “kẻ thù lâu dài” nhưng gọi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất”, và là một “kẻ thù mới trong tương lai”. Cùng thời điểm, một quân khu mới được thành lập ở Tây Bắc Việt Nam dọc theo tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.[17] Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc nhận thấy một sự tương quan chặt chẽ giữa tình trạng thù địch mới của Hà Nội và mức độ căng thẳng biên giới ngày càng gia tăng. Các tài liệu hiện có mô tả vấn đề biên giới giống như “một phương diện thể hiện sự đối đầu hơn là một tranh chấp nghiêm trọng”,[18] nhưng đối với Trung Quốc vấn đề biên giới là điểm kích hoạt cho những tính toán về một cuộc tấn công đối với Việt Nam.[19]

Từ thời điểm thành lập nước CHND Trung Hoa, các lãnh đạo Trung Quốc đã thể hiện khuynh hướng sử dụng lực lượng quân sự trong tranh chấp lãnh thổ với các nước khác. Giải phóng Quân Trung Quốc đã được sử dụng vũ lực để duy trì tuyên bố chủ quyền chống lại Ấn Độ năm 1962 và Liên Xô năm 1969. Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc đã tiếp tục truyền thống này khi đề xuất một chiến dịch quân sự chống lại một trung đoàn quân Việt Nam đóng ở Trùng Khánh, một huyện biên giới tiếp giáp tỉnh Quảng Tây. Đề xuất của Bộ Tổng tham mưu được tính toán cẩn thận để tránh khả năng leo thang, khi điều này có thể đe doạ đến tiến trình cải cách kinh tế của Trung Quốc. Châu Đức Lễ (Zhou Deli), Tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, sau này kể lại Bộ Tổng tham mưu tin rằng vị trí cô lập của Trùng Khánh sẽ cho phép quân đội Trung Quốc chia cắt tiền đồn này của Việt Nam khỏi quân tiếp viện và dễ dàng tiêu diệt nó. Sau một ngày xem xét kỹ thông tin tình báo về các khả năng Việt Nam đưa quân vào Campuchia và thảo luận tình hình chung, hầu hết những người tham dự cuộc họp đều kết luận vấn đề hiện nay với Việt Nam không chỉ là vấn đề biên giới mà rằng bất cứ hành động quân sự nào cũng phải tạo ra tác động mạnh đến Việt Nam và tình hình ở Đông Nam Á. Họ đề xuất một cuộc tấn công vào một đơn vị quân đội thường trực Việt Nam trên một vùng địa lý rộng hơn. Mặc dù không đi đến quyết định cụ thể nào, hội nghị cũng đã hình thành tinh thần chung cho cuộc chiến mà sau này Trung Quốc rốt cục đã tiến hành chống lại Việt Nam, liên kết kế hoạch tấn công với hành động của chính Việt Nam tại Đông Nam Á.[20]

Thật không may, không có nguồn tài liệu nào của Trung Quốc lý giải Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc đã thay đổi kế hoạch chiến tranh trong các tháng tiếp theo như thế nào. Rõ ràng, các quan chức tại Bắc Kinh lo ngại các tư lệnh địa phương của Giải phóng Quân Trung Quốc có thể trở nên hung hăng quá mức khi ứng phó với các diễn biến biên giới đang ngày càng gia tăng và sẽ gây tổn hại cho kế hoạch chiến tranh của trung ương. Vào ngày 21 tháng 11, Quân ủy Trung ương của ĐCSTQ đã ra lệnh cho các tư lệnh quân khu tuân thủ chiến lược chính chống bá quyền Liên Xô khi xử lý các sự cố biên giới và ra lệnh cho tất cả các đơn vị biên giới ghi nhớ phương châm “hữu lý, hữu lợi, hữu tiết” (youli, youli, youjie), nghĩa là phù hợp với khả năng, có lợi và biết cách tiết chế hợp lý, chỉ chiến đấu sau khi quân địch đã tấn công.[21]

Hai ngày sau đó, Bộ Tổng tham mưu triệu tập một cuộc họp khác để thảo luận về một kế hoạch chiến tranh mới. Xem xét đề xuất trước đó, Bộ Tổng tham mưu mở rộng phạm vi và thời gian cuộc chiến, mục tiêu là tiêu diệt một hoặc hai sư đoàn chính quy của Việt Nam trong một chiến dịch gần biên giới kéo dài 3 đến 5 ngày.[22] Một số người tham dự tin rằng tầm với của những chiến dịch này chưa đủ xa bởi vẫn chỉ giới hạn trong một vùng hẻo lánh và không đe doạ trực tiếp tới Hà Nội. Tuy nhiên, họ không lên tiếng phản đối mà tuân theo sự đánh giá của chỉ huy cấp cao. Bộ Tổng tham mưu đã ra lệnh cho Quân khu Quảng Châu và Côn Minh thực hiện chiến dịch và cho phép điều chuyển lực lượng dự bị chiến lược của Giải phóng Quân Trung Quốc, gồm hai tập đoàn quân của Quân khu Vũ Hán và Thành Đô, nhằm củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.[23] Sau đó, kế hoạch chiến tranh đã được thay đổi đáng kể để đối phó với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Nhưng thực tế Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc phác thảo một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước cả khi lực lượng Việt Nam vượt sông Mekong đã cho thấy ý định ban đầu của cuộc chiến ít nhất là buộc Việt Nam chấp nhận các yêu sách của Trung Quốc về tranh chấp biên giới và trục xuất Hoa kiều.

Đặng trở lại trung tâm quyền lực

Quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch chiến tranh như thế nào? Một bài phát biểu của Bí thư Quân ủy Trung ương Cảnh Tiêu (Geng Biao) vào ngày 16/1/1979 đã làm sáng tỏ suy tính của Bắc Kinh về cách thức đối phó với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Vào tháng 11 năm 1978 Uông Đông Hưng (Wang Dongxing), Phó Chủ tịch ĐCSTQ, và Tô Chấn Hoa (Su Zhenghua), Chính uỷ thứ nhất của hải quân và Uỷ viên Bộ chính trị ĐCSTQ đưa ra ý kiến gửi binh sĩ Trung Quốc hoặc một đơn vị hải quân đến Campuchia. Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), tư lệnh của Quân khu Quảng Châu, đề nghị được phép tấn công Việt Nam từ Quảng Tây.[24] Cảnh Tiêu thuật lại rằng sau khi xem xét kỹ lưỡng, các lãnh đạo ĐCSTQ đã phản đối tất cả các đề xuất.[25] King Chen cho rằng Cảnh Tiêu chắc hẳn biết rõ Giải phóng Quân Trung Quốc đã bố trí quân đội dọc biên giới Việt Nam, và đã cố tình che dấu kế hoạch quân sự của Bắc Kinh.[26] Báo cáo của Cảnh Tiêu cũng không tiết lộ vai trò của Đặng Tiểu Bình trong quá trình ra quyết định vì Đặng đã củng cố quyền lực trong khi ảnh hưởng chính trị của Uông và Tô suy yếu ở giai đoạn này.[27] Quyết định ban đầu của Trung Quốc về Việt Nam trùng với thời điểm bắt đầu chu kỳ đấu tranh quyền lực mới trong nội bộ ĐCSTQ.

Đặng Tiểu Bình, một nhà lãnh đạo đảng lâu đời và là một chính khách của Trung Quốc, nổi lên trở lại đấu trường chính trị Trung Quốc vào tháng 7 năm 1977 với vai trò Phó chủ tịch ĐCSTQ, Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, và Tổng tham mưu trưởng Giải phóng Quân Trung Quốc. Ban đầu quyền lực của Đặng được khôi phục không đồng nghĩa với việc ông nắm uy thế áp đảo trong ĐCSTQ. Hoa Quốc Phong, chủ tịch của cả ĐCSTQ và Quân ủy Trung ương, được sự hậu thuẫn của Uông Đông Hưng, Phó Chủ tịch ĐCSTQ, vẫn còn kiểm soát Đảng và nhà nước và vẫn tiếp tục thực hiện nhiều ý tưởng và chính sách của cố lãnh đạo Mao Trạch Đông.[28] Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) vẫn còn phụ trách Quân ủy Trung ương. Đặng khi vừa trở lại cơ quan cấp cao đã tình nguyện phụ trách khoa học và giáo dục, lĩnh vực được xem như ít quan trọng hơn công tác Đảng và quân sự.[29]
Từ tháng 8/1977 đến tháng 12 năm 1978, cuộc đấu tranh quyền lực giữa Hoa và Đặng ngày càng căng thẳng.[30] Với vị trí Tổng tham mưu trưởng Giải phóng Quân Trung Quốc, Đặng nắm rõ kế hoạch chiến tranh, nhưng dường như ông ta không chắc chắn liệu tấn công Việt Nam sẽ nhận được sự ủng hộ của toàn bộ Bộ Chính trị ĐCSTQ hay không. Hơn nữa, Đặng cần xem xét các mục tiêu Giải phóng Quân Trung Quốc có khả năng đạt được thông qua hành động quân sự ngoài việc đơn giản là trừng phạt Việt Nam. Trong một chuyến thăm Singapore vào đầu tháng 11/1978, đáp lại câu hỏi của Thủ tướng Lý Quang Diệu về việc liệu Trung Quốc sẽ dùng vũ lực tấn công lực lượng quân đội Việt Nam tại Campuchia hay không, Đặng đã tỏ ra ngần ngại khi trả lời. Có lần, ông nói với ông Lý rằng Trung Quốc sẽ trừng phạt Việt Nam, nhưng trong lần khác ông chỉ trả lời “cũng còn tuỳ”.[31]

Cán cân chính trị nghiêng về phía Đặng ngay sau khi ông trở về Bắc Kinh. Từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, Hội nghị công tác trung ương đã diễn ra với sự tham dự của lãnh đạo các tỉnh, các quân khu, và Trung ương Đảng, chính phủ, và cơ quan quốc phòng. Chương trình nghị sự ban đầu tập trung vào các vấn đề trong nước – phát triển nông nghiệp và chính sách kinh tế trong các năm 1979 và 1980 – và không bao gồm tình hình Đông Dương, trái với khẳng định đã nêu của King Chen.[32] Cuộc họp đã có một bước ngoặt bất ngờ khi Trần Vân (Chen Yun), một nhà hoạch định kinh tế kế hoạch cho Mao, phát biểu vào ngày 12 tháng 11 nhấn mạnh họ trước tiên phải giải quyết các hậu quả để lại của Cách mạng Văn hoá. Chương trình nghị sự sau đó đã chuyển sang vấn đề phục chức cho các đảng viên cấp cao trước đây bị truy tố trong Cách mạng Văn hoá và sang hướng chỉ trích liên minh Hoa – Uông vì tiếp tục theo đuổi chính sách tư tưởng cực tả. Cuộc họp kết thúc với quyết định triệu tập Hội nghị TW ba của Đại hội Đảng khoá 11, ở đây Trần Vân đã trở thành Phó Chủ tịch ĐCSTQ, củng cố vị thế chính trị của Đặng Tiểu Bình. Với bầu không khí chính trị thay đổi ở Bắc Kinh, các quyết định của Đặng dần trở lên có ảnh hưởng cao tại Trung Quốc.[33]

Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của Đặng, công bố tại Hội nghị TW ba, là chuyển ưu tiên quốc gia của Trung Quốc sang hiện đại hoá kinh tế và mở cửa ra thế giới bên ngoài.[34] Theo chương trình này, Hoa Kỳ đã được xem là nguồn chính để học tập các ý tưởng và công nghệ tiên tiến, đồng thời là tấm gương thích hợp nhất về hiện đại hoá. Cựu Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Wenjin nhớ lại Đặng tin rằng nếu Trung Quốc chỉ mở cửa với các nước khác nhưng nói không với Hoa Kỳ thì chính sách mới sẽ không có hiệu quả.[35] Đến tháng 12 năm 1978, Bắc Kinh đã mời một số tập đoàn lớn của Hoa Kỳ để giúp đỡ phát triển tài nguyên thiên nhiên, dầu khí, và các nghành công nghiệp nặng khác ở Trung Quốc. Vấn đề chính sách đối ngoại không nằm trong chương trình nghị sự của Hội nghị công tác trung ương hay Hội nghị TW ba, nhưng tình hình chính trị trong nước và mối quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam (biểu trưng bởi liên minh mới Việt-Xô) thúc đẩy các nhà lãnh đạo sắp xếp một cuộc họp đặc biệt về vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.[36] Nhân tố Mỹ đóng một vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược của Trung Quốc trong gian đoạn trước khi tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam.

Nhân tố Liên Xô

Nghiên cứu của Qiang Zhai về mối quan hệ của Trung Quốc với Bắc Việt Nam trước tháng 4 năm 1975 lưu ý rằng nếu như các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây luôn duy trì mối quan hệ cá nhân thân thiết với giới chức Việt Nam, thì Đặng ngược lại không có bất cứ sự “gắn bó cá nhân sâu nặng nào với Việt Nam”. Đến cuối năm 1978, vì cảm thấy bị xúc phạm quá mức trước những dấu hiệu mà ông ta cho rằng Hà Nội đang thách thức lợi ích của Bắc Kinh, Đặng đã không “ngần ngại tiến hành một cuộc chiến tranh để dạy cho Việt Nam một bài học.”[37] Năm 1979, các lãnh đạo Việt Nam cũng đã cáo buộc Đặng chống lại những lợi ích của Việt Nam ngay cả trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Lê Duẩn tuyên bố Đặng đã không chỉ cố gắng thuyết phục miền Bắc Việt Nam giảm bớt cuộc cách mạng ở miền Nam, mà còn ngăn miền Bắc Việt Nam không được nhận viện trợ từ Liên Xô, coi đây là điều kiện để Trung Quốc tiếp tục viện trợ cho Hà Nội.[38]

Tổng cộng Trung Quốc đã cung cấp cho Hà Nội 20 tỷ đô la viện trợ trong hai thập kỷ, nhiều hơn nguồn tiếp tế của bất kỳ quốc gia nào khác.[39] Khi chính quyền Việt Nam bắt đầu trục xuất Hoa kiều ở miền bắc Việt Nam và xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc dọc theo biên giới, nhiều người Trung Quốc đã tức giận trước những hành vi mà họ coi là sự vô ơn của Hà Nội sau những viện trợ và hy sinh của họ. Trung Quốc đã chứng kiến ​​mt làn sóng gin d ca công chúng chng li Vit Nam do b máy tuyên truyn chính thng kích động.[40] Những người từng hỗ trợ những người cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ cảm thấy bị phản bội và sẵn sàng “dạy cho Việt Nam một bài học”. Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm đã mô tả hành động quân sự của Trung Quốc giống như “một cái tát vào mặt [Việt Nam] để cảnh cáo và trừng phạt họ.”[41] Đặng Tiểu Bình cũng không phải là ngoại lệ. Ông ta đã tỏ ý khó chịu với thái độ “vô ơn” của Việt Nam kể từ giữa những năm 1960.[42]

Mặc dù tình trạng thù địch giữa Trung Quốc và Việt Nam trở nên căng thẳng trong cuối những năm 1970, Đặng trở nên ngày càng nhạy cảm, thậm chí một lần đã gọi Việt Nam là wangbadan (một từ mang nghĩa chửi thề -NBT) trước mặt một nhà lãnh đạo nước ngoài.[43] Như Raymond đã chỉ ra, trong một tình huống mà “ý định thù địch [tồn tại] ở cả hai bên, sự giận dữ và lòng thù hận [có khả năng] nảy sinh”.[44] Điều mà Đặng nhìn nhận là “thái độ xấc xược” của Việt Nam, cùng với các xung đột biên giới leo thang và cuộc di tản đang diễn ra của Hoa kiều, tất cả đã tạo ra “sự giận dữ và lòng thù hận” ở Bắc Kinh, và thúc đẩy chính phủ cân nhắc đến các phương án quân sự. Việc sử dụng lực lượng quân sự cũng phù hợp với tư duy chiến lược của vị lãnh đạo cao nhất này của Trung Quốc.

Sau khi quay lại nắm quyền lực, quan điểm chính sách đối ngoại của Đặng ban đầu vẫn chịu ảnh hưởng theo tư duy chiến lược của Mao Trạch Đông, tức là coi công cuộc bành trướng toàn cầu và lực lượng quân sự của Liên Xô là mối đe dọa chính đối với hòa bình. Mặc dù Matxcơva đã nỗ lực hòa giải với Trung Quốc trong năm 1977 và 1978, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn từ chối tin tưởng vào Liên Xô vì sự thù địch từ lâu giữa hai đất nước.[45] Liên Xô tiếp tục tăng cường quân đội mạnh mẽ gần Trung Quốc và thường xuyên tiến hành tập trận bằng đạn thật mô phỏng xung đột biên giới.[46] Bắt đầu từ đầu những năm 1970, Mao theo đuổi chiến lược “một đường ngang” (yitiaoxian – nhất hoành tuyến) trên toàn cầu, tức là một đường phòng thủ chiến lược chống lại Liên Xô kéo dài từ Nhật Bản sang châu Âu đến Mỹ. Cơ sở chiến lược “hoành tuyến” của Mao là dựa vào hợp tác chặt chẽ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Washington đã không hưởng ứng phương pháp này theo cách mà Bắc Kinh trông chờ​​. Các nhà lãnh đạo Trung Quc đã kết lun rng M vn ch yếu quan tâm đến chính sách hòa du (détente) với Liên Xô.[47]

Nỗi thất vọng của Trung Quốc tiếp tục trong suốt những năm đầu của nhiệm kỳ tổng thống Jimmy Carter khi ông chính thức tuyên bố sẽ dành ưu tiên cao hơn cho hoà dịu Xô-Mỹ. Đặng không thích chính sách cố gắng xoa dịu căng thẳng quốc tế thông qua đàm phán của Hoa Kỳ. Vào ngày 27 tháng 9 năm 1977, trong cuộc gặp với George H. W. Bush, cựu giám đốc văn phòng liên lạc của Mỹ tại Bắc Kinh, Đặng đã chỉ trích thỏa thuận kiểm soát vũ khí hạt nhân Xô-Mỹ vốn không ngăn được Liên Xô đạt được sức mạnh ngang bằng với Mỹ.[48] Vài tháng sau đó, vị lãnh đạo Trung Quốc nhắc lại những lời chỉ trích đó với Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của chính quyền Carter, khi vị này đến thăm Bắc Kinh tháng 5 năm 1978. Đặng cảnh báo Brzezinski về ý định của Liên Xô, cho rằng nước này sẽ gây hại cho Mỹ. Lãnh đạo Trung Quốc đã không tin rằng các thỏa thuận hoặc hợp tác với Liên Xô có thể ngăn chặn nước này bành trướng. Tuy nhiên, Brzezinski cho rằng chính sách của Trung Quốc chỉ đơn giản là “nói suông”. Đặng không đồng ý và giải thích rằng Trung Quốc đã làm mọi điều trong khả năng của mình.[49] Khó có thể khẳng định rằng cuộc trao đổi này có ảnh hưởng tâm lý tới Đặng hay không, nhưng sau đó ông ta đã thừa nhận không muốn các nước khác nhận thức Trung Quốc yếu đuối khi đối đầu với liên minh Xô-Việt.[50] Hành động quân sự của Trung Quốc được dự kiến là nhằm chứng tỏ rằng Bắc Kinh không chỉ nói miệng nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ thống nhất trong việc chống lại thái độ hung hăng của Liên Xô.[51]

Trong tháng 11, một số diễn biến phát sinh đã khiến Bắc Kinh càng thêm lo lắng. Đầu tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo ngại về khả năng bình thường hoá hoặc cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vào ngày 03 tháng 11, Lý Tiên Niệm đã lên tiếng không hài lòng trong một cuộc trò chuyện với Bộ trưởng Năng lượng Mỹ James Schlesinger, tuyên bố mối ­­quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam sẽ không kéo Việt Nam khỏi Liên Xô.[52] Trung Quốc tỏ ra nóng lòng muốn đẩy nhanh các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ về việc thiết lập quan hệ ngoại giao và khôi phục các cuộc đàm phán vốn đã bị đình trệ hồi đầu tháng 7 năm 1978. Thứ hai, tăng cường quan hệ quân sự của Liên Xô với Việt Nam sau khi ký Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Xô-Việt vào ngày 3 tháng 11 là tiếng chuông báo động với Bắc Kinh. Trung Quốc cho rằng Liên Xô đã hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào Campuchia và khuấy động căng thẳng biên giới phía Nam Trung Quốc.[53] Đối với Trung Quốc, Việt Nam đang trở thành một mối đe dọa quân sự nghiêm trọng, càng làm sâu sắc hơn mối đe dọa của Liên Xô từ phía Bắc. Trung Quốc cần tìm cách lập lại thế cân bằng chiến lược thông qua hành động quân sự chống lại “chủ nghĩa bá quyền khu vực” của Việt Nam.

Ngày 7 tháng 12 Quân ủy Trung ương đã nhóm họp trong vài giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế “đánh trả” Việt Nam.[54] Tại cuộc họp một số lo ngại rằng Liên Xô có thể phản ứng bằng một cuộc tấn công trả đũa từ phía Bắc, đẩy Trung Quốc sa vào một cuộc chiến tranh hai mặt trận. Phân tích tình báo của Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc chỉ ra rằng Liên Xô sẽ có ba lựa chọn quân sự để đáp trả cuộc xâm lược này: (1) một cuộc tấn công quy mô lớn bao gồm cả tấn công trực tiếp vào Bắc Kinh, (2) xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số lưu vong có vũ trang tấn công các vùng xa xôi của Trung Quốc ở Tân Cương và Nội Mông, và (3) sử dụng các vụ đụng độ nhỏ để kích động căng thẳng biên giới giữa hai nước. Mặc dù 54 sư đoàn của Liên Xô đã được triển khai dọc biên giới với Trung Quốc và Mông Cổ, Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc tính toán rằng hai phần ba trong những sư đoàn này thiếu quân số và trang bị không đầy đủ, Liên Xô không có đủ lực lượng để triển khai một cuộc can thiệp quân sự quy ​​mô ln Trung Quc. Bt k s can thip nào cũng s buc Matxcơva không ch chuyn mt s lượng ln quân đội t Châu Âu, mà còn đặt an ninh quốc gia của Liên Xô vào rủi ro lớn bởi khả năng đáp trả từ Hoa Kỳ là điều hoàn toàn có thể. Liên Xô không thể tấn công Trung Quốc từ phía Bắc mà không xem xét đến điều này.[55] Ngày 8 tháng 12 Quân ủy Trung ương đã ra lệnh cho Quân khu Quảng Châu và Côn Minh chuẩn bị sẵn sàng cho hành động quân sự chống lại Việt Nam trước ngày 10 tháng 1 năm 1979.[56]

Bình thường hoá quan hệ Trung-Mỹ 
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Tìm kiếm ủng hộ từ Washington

Kết luận: Đánh giá quyết định chiến tranh của Trung Quốc

Download toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Dang Tieu Binh va quyet dinh chien tranh voi VN.pdf





Ghi chú: Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không phải quan điểm của người dịch và BBT Nghiencuuquocte.net. Do nhiều nguồn tư liệu mà tác giả trích dẫn trong bài là từ phía Trung Quốc nên tính chính xác và khách quan có thể không được đảm bảo. Tuy nhiên, trên tinh thần học thuật, tôn trọng tác giả và nhằm giúp bạn đọc hiểu được quan điểm tuyên truyền nội bộ Trung Quốc về cuộc chiến, chúng tôi dịch nguyên văn bài viết, bao gồm cả cách diễn đạt, dùng từ. Quyền nhận định và đánh giá nội dung bài viết thuộc về các độc giả.

[1] Renmin ribao [Nhân dân nhât báo], ngày 19 tháng 3 năm 1979. Bản dịch tiếng Anh, xem Bắc Kinh Review, ngày 23 tháng 3 năm 1979.
[2] Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment,” Asian Survey, Vol. 19, No. 8 (August 1979), pp. 802–803; Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1992), pp. 50–57; and Edward C. O’Dowd, Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War (New York: Routledge, 2007), p. 6.
[3] Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975–1979 (New York: Columbia University Press, 1988), p. 253; and Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1785–1989 (London: Routledge, 2001), p. 285.
[4] Gerald Segal, Defending China (New York: Oxford University Press, 1985), pp. 225–226.
[5] King Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 1987), pp. 85–86, 152.
[6] Andrew Scobell, China’s Use of Military Force beyond the Great Wall and the Long March (New York: Cambridge University Press, 2003), pp. 124–143.
[7] Những cuốn hồi ký đáng chú ý là Zhou Deli, Yige gaoji canmouzhang de zishu [Personal Recollections of a High-Ranking Chief of Staff ] (Nanjing: Nanjing chubanshe, 1992); Xu Shiyou de zuihou yizhan [The Last Battle of Xu Shiyou] (Nanjing: Jiangsu renmin chubanshe, 1990); and Zhang Zhen, Zhang Zhen huiyilu [Zhang Zhen’s Memoirs] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2003). Ngoài ra, các trang web Internet Trung Quốc chứa các tài liệu, hồi ký, hồi ức cá nhân, và những đoạn trích từ các ấn phẩm của Trung Quốc liên quan đến cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam. Hữu ích nhất là “Zhongyue zhangzhen beiwanglu” [Memoranda of Sino-Vietnam War], http://bwl.top81.cn/war79/index.html.
[8] Đối với nghiên cứu về quyết định của Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên, xem Shu Guang Zhang, Mao’s Military Romanticism: China and the Korean War, 1950–1953 (Lawrence, KS: University Press of Kansas, 1995), ch. 4; Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), ch. 4; and Xiaoming Zhang, Red Wing over the Yalu: China, the Soviet Union, and the Air War in Korea (College Station: Texas A&M University Press, 2002), ch. 3.
[9] Ross, The Indochina Tangle, các trang 118–123, 127–128. Người Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không thể giữ nguyên mức độ trợ giúp Việt Nam như đã làm trong chiến tranh bởi vì kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn rất lớn trong thời gian này. Xem Guo Ming, ed., ZhongYue guanxi yanbian sishinian [The Development of Sino-Vietnamese Relations in Forty Years] (Nanning, China: Guangxi renmin chubanshe, 1992), p. 114.
[10] Chen, China’s War, các trang 35–36.
[11] Luo Yuansheng, Baizhan jiangxing Wang Shangrong [The Biography of GeneralWang Shangrong] (Beijing: Jiefangjun wenyi chubanshe, 1999), pp. 375–377; and Yang Qiliang et al., Wang Shangrong jiangjun [General Wang Shangrong] (Beijing: Dangdai Zhongguo chubanshe, 2000), p. 626.
[12] John Vasquez and Marie T. Henehan, “Territorial Disputes and the Probability of War, 1816– 1992,” Journal of Peace Research, Vol. 38, No. 2 (2001), pp. 123–138.
[13] Guo, ed., ZhongYue guanxi yanbian sishinian, trang 169; Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 241–242.
[14] Han Huanzhi, chief ed., Dangdai Zhongguo jundui de junshi gongzuo [Contemporary Chinese Military Affairs] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1989), Vol. 1, p. 659.
[15] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 239–240.
[16] Han Lianlong, chief ed., Dangdai Zhongguo waijiao [Contemporary Chinese Diplomacy] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1990), pp. 285–286.
[17] Vietnamese National Defense Ministry, Military History Institute, Yuenan renminjun wushinian [Fifty Years of Vietnamese People’s Army], trans. by Liu Huanpu et al. (Beijing: Junshi Yiwen chubanshe, 1994), pp. 267–268.
[18] BrantlyWomack, China and Vietnam: The Politics of Asymmetry (New York: Cambridge University Press, 2006), p. 199.
[19] Một nghiên cứu gần đây lưu ý rằng từ năm 1949 đến năm 2007 Trung Quốc đã có 23 tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng cả trên đất liền và dưới biển, đã sử sụng vũ lực trong 6 lần. Xem M. Taylor Fravel, Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conºict in China’s Territorial Disputes (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2008), pp. 1–2.
[20] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 242–243.
[21] “Zhongguo Renmin Jiefangjun Tongjian” Editorial Committee, Zhongguo renming jiefangjun tongjian [A General Record of the PLA of China, 1927–1996], 3 vols. (Lanzhou, China: Gansu renmin chubanshe, 1997), Vol. 2, p. 2173.
[22] Trừ khi có trích dẫn khác, tất cả các thông tin chi tiết về kế hoạch xâm lược của Trung Quốc được cung cấp bởi Cai Pengcen, một sinh viên sau đại học ngành lịch sử tại Đại học Tây Nam ở Trung Quốc.
[23] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, pp. 244–245; Zhang Zhen, Zhang Zhen junshi wenxuan [Selected Military Works of Zhang Zhen] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2005), p. 298; and Wang Hancheng, Wang Hancheng huiyilu [Wang Hancheng Memoirs] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2004), p. 535. Cả Zhang và Wang cho rằng quân đội từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô được xem là quân dự bị chiến lược của Giải phóng Quân Trung Hoa.
[24] Điều này có lẽ xảy ra vào cuộc họp tháng 11 năm 1978 của Quân ủy Trung ương. Xem Zhang, Zhang Zhen huiyilu, Vol. 2, pp. 165–66; and Jin Ye, Hu Juchen, and Hu Zhaocai, Baizhan jiangxing Xu Shiyou [Biography of General Xu Shiyou] (Beijing: Jiefangjun wenyi chubanshe, 1999), pp. 329–331.
[25] Geng Biao, “Secret Report,” 16 January, 1979, in Studies on Chinese Communism, No. 166 (15 October 1980), pp. 150–152.
[26] Chen, China’s War, trang 87.
[27] Ye Yonglie, Cong Hua Guofeng dao Deng Xiaoping: Zhongkang shiyijie sanzhong quanhui qianhou [From Hua Guofeng to Deng Xiaoping: Around the Third Plenum of the Eleventh Central Party Committee] (Hong Kong: Tiandi Books, 1998), pp. 526–527; Sun Dali, “A Historical Turning Point of New China: The Third Plenum of the Eleventh Central Committee,” in Lin Zhijian, ed., Xin Zhongguo yaoshi shuping [Review of the Important Events of New China] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 1994), p. 498; and Xiao Jinguang, Xiao Jinguang huiyilu xuji [Xiao Jinguang Memoirs: Continuation Edition] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 1988), pp. 361–363.
[28] Hội nghị TW ba của Uỷ ban Trung ương Đảng khóa 10, diễn ra từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 7 năm 1977, dự kiến Hoa là Chủ tịch ĐCSTQ với đầy đủ quyền kiểm soát Đảng, Nhà nước, và quốc phòng. Diệp vẫn chịu trách nhiệm về quân đội, và Uông, người được thăng chức Phó Chủ tịch Đảng sau đó 1 tháng, chịu trách nhiệm về tổ chức Đảng, tuyên huấn, và an ninh. Xem Ye, Cong Hua guofeng dao DengXiaoping, các trang 222, 227, 235–236, 240.
[29] Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Selected Works of Deng Xiaoping] (Beijing: Renmin chubanshe, 1983), Vol. 2, p. 65.
[30] Ye, Cong Hua guofeng dao Deng Xiaoping, pp. 222–226; and Sun, “A Historical Turning Point of New China,” pp. 478–480.
[31] Lee Kuan Yew, From the Third World to First: The Singapore Story, 1965–2000 (New York: Anchor Press, 2000), pp. 601–602.
[32] Chen, China’s War, trang 85.
[33] Mặc dầu Uông vẫn còn giữ chức Phó Chủ tịch Đảng nhưng ông đã không còn kiểm soát Văn phòng TW Đảng hoặc Ban bảo vệ trung ương của Giải phóng Quân Trung Quốc. Ye, Cong Hua Guofeng, các trang 463–528.
[34] Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Selected Works of Deng Xiaoping], Vol. 3 (Beijing: Renmin chubanshe, 1993), p. 269.
[35] Li Shenzhi, Li Shenzhi wenji [Collected Works of Li Shenzhi] (Beijing: n.p., 2004), p. 334.
[36] Qian Jiang, Deng Xiaoping yu ZhongMei jianjiao fengyun [Deng Xiaoping and the Establishment of Diplomatic Relationship between China and the United States] (Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2005), p. 153; Gong Li, Deng Xiaoping yu Meiguo [Deng Xiaoping and the United States] (Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2004), p. 236.
[37] Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950–1975 (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2000), p. 214.
[38] “Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique against Vietnam (1979),” trans. By Christopher E. Goscha, The Cold War International History Project Bulletin, No. 12/13 (Fall/Winter 2001), pp. 281, 284, 289. Xem thêm, Odd Arne Westad, et al, eds., “77 Conversations between China and foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977,” CWIHP Working Paper No. 22, Cold War International History Project, Washington, DC, p. 57.
[39] Đây là thống kê chính thức của Trung Quốc nhưng cách thức tính toán thế nào thì chưa rõ ràng. Căn cứ theo nguồn tin có thẩm quyền của Trung Quốc, Trung Quốc cung cấp cho miền Bắc Việt Nam tổng cộng 4,26 tỷ nhân dân tệ bằng viện trợ quân sự từ năm 1950 đến năm 1974. Li Ke and Hao Shengzhang,Wenhua dagemin zhong de jiefangjun [The PLA in the Cultural Revolution] (Beijing: Zhonggong dangshi ziliao chubanshe, 1989), p. 409.
[40] Guo, ed., ZhongYue guanxi, trang106.
[41] Luo, Baizhan jiangxing Wang Shangrong, trang 377.
[42] Xem Westad et al., eds., “77 Conversations,” pp. 94–98, 194–195.
[43] Lee, From the Third World, trang 595.
[44] Raymond Aron, Peace and War: A Theory of International Relations (Garden City, NY: Anchor Press, 1973), p. 19.
[45] Ví dụ, trong tháng 3 năm 1978, lãnh đạo tối cao Liên bang Xô Viết gửi một tin nhắn cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc đề nghị Liên Xô và Trung Quốc đưa ra tuyên bố hữu nghị về các quy tắc định hướng quan hệ giữa hai quốc gia. Người Trung Quốc đã công khai từ chối đề nghị này.
[46] Đối với quan điểm của Đặng về Liên Xô, xem Memorandum of Conversation, Brzezinski-Deng, 21 May 1978, in China Vertical File, Jimmy Carter Library (JCL).. Xem thêm Wang Zhongchun, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969–1979,” in William C. Kirby, Robert S. Ross, and Gong Li, eds., Normalization of U.S.-China Relations: An International History (Cambridge, MA: Harvard University Asia Center, 2005), pp. 165–166.
[47] Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969–1979,” pp. 158–164.
[48] PRC Ministry of Foreign Affairs Archives, Weiren de zuji: Deng Xiaoping waijiaohuodong dashiji [The Footprints of a Great Man: The Record of Deng Xiaoping’s Participation in Important Foreign Events] (Beijing: Shijie zhishi chubanshe, 1998), p. 158.
[49] Memorandum of Conversation, Brzezinski-Deng, 21 May 1978.
[50] Kyodo News, 26 February 1979, in U.S. Foreign Broadcast Information Service, Daily Reports: China (FBIS-PRC), 26 February 1979, p. A6.
[51] Đặng Tiểu Bình tin rằng chiến tranh Việt Nam sẽ chỉ ra “Trung Quốc không bao giờ bị lừa phỉnh bởi những điều ngụy biện [buxinxie].” Xem Deng Xiaoping, Deng Xiaoping junshi wenji [Collected Military Works of Deng Xiaoping] (Beijing: Junshi kexue chubanshe, 2004), Vol. 3, p. 177.
[52] Memorandum from Stansªeld Turner to Brzezinski, 21 November 1978, in NLC-26-57-1-6-4, JCL.
[53] Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization,” p. 166. Nghiên cứu hiện có của phương Tây không đưa ra được bằng chứng về vai trò của Liên Xô trong việc Việt Nam quyết định đưa quân vào Campuchia.  Xem Stephen J.Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia: Political Culture and the Causes of War (Stanford, CA: Stanford University Press, 1999), pp. 215–217.
[54] Min Li, ZhongYue zhanzheng shinian [Ten Years of Sino-VietnamWar] (Chengdu, China: Sichuandaxue chubanshe, 1993), p. 15.
[55] Sách đã dẫn, các trang 16–17.
[56] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, trang246



No comments:

Post a Comment

View My Stats