Du Tử Lê
Sunday, December 29, 2013 4:23:36 PM
Ðó là sáng Thứ Sáu, ngày 20 tháng 12, 2013. Như
thường lệ, chúng tôi gặp nhau ở café Tài Bửu. NH. Phương tiếp tục kể chuyện
Phương Dung và đêm trước anh em tập trung ở nhà một bạn học cũ. NB. Hòa nói về
chuyến bay về phương đông, đã cận kề... Tôi hỏi thăm NL. Vỵ, tin Khánh Minh,
sau khi người nữ có nhiều bài thơ khá tốt trong thời gian gần đây, té ngã, phải
vào nhà thương, vì một phần xương bánh chè bị bể. Và, Thiên Hương, cô chủ quán
dài lâu của café Tao Nhân - Một thời là “địa chỉ đẹp”; điểm hẹn quen thuộc của
nhiều sinh hoạt VHNT ở quận hạt Orange County nhiều thập niên, đang ở nhà
thương, chưa có ngày về. Vỵ giải tỏa phần nào mối bận tâm của tôi bằng hai
“short briefs”... Sau đó, Vỵ gọi cho Sơn, người bạn đời của Thiên Hương, khi
tôi ngỏ ý muốn đi thăm Thiên Hương trong bệnh viện. Tôi nói, từng nằm bệnh viện
nhiều ngày, tháng, nên rất hiểu giá trị của mọi cuộc thăm viếng... Vỵ gọi cho
Sơn và, chuyển máy... Sơn kể, lần này, các bác sĩ phát hiện Thiên Hương bị một
cục bướu đè lên ống dẫn mật. Ðã mấy ngày qua rồi, nhưng bệnh nhân và thân nhân
vẫn còn chờ kết quả các thử nghiệm, nhất là kết quả biopsy để biết bướu lành
hay ưng thư, trước khi quyết định có cần giải phẫu? Sơn nói, Thiên Hương đang
nằm ở Orange Coast Memorial Hospital, thành phố Huntington Beach, phòng số...
Chúng tôi chia tay nhau sớm, khi gió giở chứng, đem thêm nhiều lưỡi dao buốt giá, liếc qua, liếc lại thân thể chúng tôi, ngoài hành lang nhà hàng Tài Bửu. Tôi lái xe về, với nỗi buồn chẳng bao giờ có thể trở thành quen thuộc: Nỗi buồn cuối năm / Quê người / Nhẩm tính người còn, kẻ mất. Rồi luôn luôn câu hỏi cuối cùng ở tôi, vẫn là “khi nào tới phiên ta?”
- Ðó là lúc 10:50AM (vẫn Thứ Sáu 20 tháng 12, 2013), T. gọi cho tôi, báo tin Việt Dzũng không còn nữa!!! Khi tôi đang xếp hàng chờ trả tiền đổ xăng. Tai tôi ắp đầy những âm âm thanh nhọn hoắt... Câu nói ngắn của T. bị chẻ nát, thành những tiếng lạc lõng; giống như những dội sóng ì ầm, đứt đoạn. Không có thật. Người đàn bà Mễ đứng sau quầy tính tiền tỏ dấu khó chịu thấy tôi không nói gì. Có thể chị ta không (hay đã) nhận ra vẻ thất thần trên mặt tôi!?!
Cây xăng tôi dừng lại hôm đó, nằm ngay ngã tư Brookhurst và Trask. Chỉ cần chạy thêm vài trăm thước là đường Garden Grove, rẽ tay mặt, cũng chỉ vài trăm thước thôi, đài truyền hình SBTN nằm bên trái. SBTN, nơi Việt Dzũng phải lui tới hàng ngày, không chỉ một lần; đôi khi nhiều hơn, vì nhu cầu công việc. Tôi nghĩ, chỗ tôi đứng, vòi xăng tôi đang dùng, nhiều phần cũng là chỗ và vòi xăng Việt Dzũng đã từng đứng. Từng dùng. Từng chờ đợi. Trong tôi, một ý nghĩ hoang tưởng vụt đến: Tôi nghĩ, biết đâu chốc lát sẽ có người đặt tay lên vai tôi. Nói, theo thói quen “Dzũng đây anh!” Và, “Cậu Út” (1) sẽ vẫn nụ cười trẻ thơ, gương mặt bụ bẫm, rất “babyface” nhấn mạnh: “Tin đồn đó anh. Dzũng chưa chết đâu! Dzũng còn nhiều việc phải làm mà anh...!”
Cho tới khi rời cây xăng, vẫn không một bàn tay đặt lên vai tôi. Cũng chẳng có tiếng nói nào, dù thì thầm với riêng tôi.
-Ðó là lúc 7 giờ tối (vẫn Thứ Sáu 20 tháng 12, 2013): Tôi không biết mình đã nhận được bao nhiêu điện thoại?!? Khởi đầu là điện thoại của NH. Phương. Nhiều lần. Tôi biết Phương muốn nói gì. Tôi không nghe. Tôi không muốn nghe lại cái điệp khúc “Việt Dzũng mất rồi!” hay, “Việt Dzũng chết rồi!” đã lùng bùng trong tôi hơn nửa tiếng trước.
Nhưng khi Nguyệt Hạnh, rồi Topaz Trần, Lê Văn Hào (Houston), Phiến Ðan, Lâm Lý Trí, Trần Thu Miên (Boston)... Ðỗ Vẫn Trọn, từ Việt Nam, Pleiku, Trần Thu Miên từ Boston, Mass... gọi... thì tôi nghe. (2) Họ không gọi để thông báo hay, hỏi tôi có biết tin Việt Dzũng mất. Họ gọi để bày tỏ sự bàng hoàng, bất ngờ và, nỗi buồn quá lớn, trước sự “đi xa” đột ngột của Việt Dzũng.
Ở từng vị trí quá khứ, mỗi người khua thức trong tôi, những cảnh đời mà, họ đã có chung với tôi và Việt Dzũng. Chúng như những hòn than dĩ vãng cháy bỏng và, nỗi muộn phiền là mặt bên kia của một thời rực rỡ!
*
Tiếng nói lạc giọng của Topaz Trần ném tôi trở lại những ngày đầu thập niên 1980s. Ðó là những buổi tối, nơi phòng khách căn nhà nhỏ đường Ranchero Way, Garden Grove, Việt Dzũng ôm đàn hát gần như tất cả những ca khúc có trong băng nhạc “Kinh Tỵ Nạn”. Chúng tôi sững người. Ðứng tim. Khi Việt Dzũng hát bằng giọng của mình, những ca khúc như “Một Chút Quà Cho Quê Hương”:
Chúng tôi chia tay nhau sớm, khi gió giở chứng, đem thêm nhiều lưỡi dao buốt giá, liếc qua, liếc lại thân thể chúng tôi, ngoài hành lang nhà hàng Tài Bửu. Tôi lái xe về, với nỗi buồn chẳng bao giờ có thể trở thành quen thuộc: Nỗi buồn cuối năm / Quê người / Nhẩm tính người còn, kẻ mất. Rồi luôn luôn câu hỏi cuối cùng ở tôi, vẫn là “khi nào tới phiên ta?”
- Ðó là lúc 10:50AM (vẫn Thứ Sáu 20 tháng 12, 2013), T. gọi cho tôi, báo tin Việt Dzũng không còn nữa!!! Khi tôi đang xếp hàng chờ trả tiền đổ xăng. Tai tôi ắp đầy những âm âm thanh nhọn hoắt... Câu nói ngắn của T. bị chẻ nát, thành những tiếng lạc lõng; giống như những dội sóng ì ầm, đứt đoạn. Không có thật. Người đàn bà Mễ đứng sau quầy tính tiền tỏ dấu khó chịu thấy tôi không nói gì. Có thể chị ta không (hay đã) nhận ra vẻ thất thần trên mặt tôi!?!
Cây xăng tôi dừng lại hôm đó, nằm ngay ngã tư Brookhurst và Trask. Chỉ cần chạy thêm vài trăm thước là đường Garden Grove, rẽ tay mặt, cũng chỉ vài trăm thước thôi, đài truyền hình SBTN nằm bên trái. SBTN, nơi Việt Dzũng phải lui tới hàng ngày, không chỉ một lần; đôi khi nhiều hơn, vì nhu cầu công việc. Tôi nghĩ, chỗ tôi đứng, vòi xăng tôi đang dùng, nhiều phần cũng là chỗ và vòi xăng Việt Dzũng đã từng đứng. Từng dùng. Từng chờ đợi. Trong tôi, một ý nghĩ hoang tưởng vụt đến: Tôi nghĩ, biết đâu chốc lát sẽ có người đặt tay lên vai tôi. Nói, theo thói quen “Dzũng đây anh!” Và, “Cậu Út” (1) sẽ vẫn nụ cười trẻ thơ, gương mặt bụ bẫm, rất “babyface” nhấn mạnh: “Tin đồn đó anh. Dzũng chưa chết đâu! Dzũng còn nhiều việc phải làm mà anh...!”
Cho tới khi rời cây xăng, vẫn không một bàn tay đặt lên vai tôi. Cũng chẳng có tiếng nói nào, dù thì thầm với riêng tôi.
-Ðó là lúc 7 giờ tối (vẫn Thứ Sáu 20 tháng 12, 2013): Tôi không biết mình đã nhận được bao nhiêu điện thoại?!? Khởi đầu là điện thoại của NH. Phương. Nhiều lần. Tôi biết Phương muốn nói gì. Tôi không nghe. Tôi không muốn nghe lại cái điệp khúc “Việt Dzũng mất rồi!” hay, “Việt Dzũng chết rồi!” đã lùng bùng trong tôi hơn nửa tiếng trước.
Nhưng khi Nguyệt Hạnh, rồi Topaz Trần, Lê Văn Hào (Houston), Phiến Ðan, Lâm Lý Trí, Trần Thu Miên (Boston)... Ðỗ Vẫn Trọn, từ Việt Nam, Pleiku, Trần Thu Miên từ Boston, Mass... gọi... thì tôi nghe. (2) Họ không gọi để thông báo hay, hỏi tôi có biết tin Việt Dzũng mất. Họ gọi để bày tỏ sự bàng hoàng, bất ngờ và, nỗi buồn quá lớn, trước sự “đi xa” đột ngột của Việt Dzũng.
Ở từng vị trí quá khứ, mỗi người khua thức trong tôi, những cảnh đời mà, họ đã có chung với tôi và Việt Dzũng. Chúng như những hòn than dĩ vãng cháy bỏng và, nỗi muộn phiền là mặt bên kia của một thời rực rỡ!
*
Tiếng nói lạc giọng của Topaz Trần ném tôi trở lại những ngày đầu thập niên 1980s. Ðó là những buổi tối, nơi phòng khách căn nhà nhỏ đường Ranchero Way, Garden Grove, Việt Dzũng ôm đàn hát gần như tất cả những ca khúc có trong băng nhạc “Kinh Tỵ Nạn”. Chúng tôi sững người. Ðứng tim. Khi Việt Dzũng hát bằng giọng của mình, những ca khúc như “Một Chút Quà Cho Quê Hương”:
“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy.
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy.
Gởi về cho chị dăm ba xấp vải
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng.
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng.
Con gởi về cho cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình.
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình.
Em gởi về cho anh một cây bút máy
Anh vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn”. (3)
Anh vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn”. (3)
Hay “Lời Kinh Ðêm”:
“Lời kinh đêm ôi lời kinh đêm.
Lời kinh buồn như tiếng mẹ thở dài.
Ai có nghe thấu lời kinh khổ,
Sao cúi mặt gục đầu ngủ quên.
Lời kinh buồn như tiếng mẹ thở dài.
Ai có nghe thấu lời kinh khổ,
Sao cúi mặt gục đầu ngủ quên.
Trời mong manh ôi đời lênh đênh.
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ...
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn giữa tiếng Nam-mô.
Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ...
Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc
Lời mẹ buồn giữa tiếng Nam-mô.
Thuyền trôi xa về đâu ai biết
Thuyền có về ghé bến tự do.
Trời cao xanh hay trời oan nghiệt.
Trời có buồn hay trời chỉ làm ngơ.
Thuyền có về ghé bến tự do.
Trời cao xanh hay trời oan nghiệt.
Trời có buồn hay trời chỉ làm ngơ.
Trời chơ vơ ôi người bơ vơ.
Người vẫn ôm mảnh ván rũ mục.
Lời kinh cầu từng hồi nấc nghẹn.
Lời mẹ buồn giữa tiếng Amen.
Người vẫn ôm mảnh ván rũ mục.
Lời kinh cầu từng hồi nấc nghẹn.
Lời mẹ buồn giữa tiếng Amen.
Người buông xuôi về nơi đáy nước
Người có mộng một nấm mộ xanh.
Biển ngây ngô hay biển man rợ
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ”. (4)
Người có mộng một nấm mộ xanh.
Biển ngây ngô hay biển man rợ
Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ”. (4)
Tôi nhớ, tôi đã yêu cầu Dzũng hát lại nhiều lần, hai
ca khúc vừa kể. Riêng “Lời Kinh Ðêm” Dzũng phải hát lại không dưới 3 lần.
Tôi yêu tất cả những ca khúc của Dzũng trong “Kinh Tỵ Nạn” tới độ, hai ngày sau, tôi mời thêm một số bằng hữu tôi quý, trong số đó, có Topaz Trần, để nghe “Người buông xuôi về nơi đáy nước / Người có mộng một nấm mộ xanh / Biển ngây ngô hay biển man rợ / Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ”?
Thời gian này, cũng là thời gian chúng tôi mới khởi sự thực hiện nguyệt san Nhân Chứng mà, linh hồn của phần kỹ thuật, sắp chữ bằng máy IBM (quả cầu, bỏ dấu tay) là Việt Dzũng.
Thời gian này, quận hạt Orange County có rất ít nhà hàng. Một trong những nhà hàng thuộc hạng sang, là nhà hàng Pagoda, ra đời, tọa lạc gần ngã tư Harbor và Garden Grove. Một buổi trưa, Topaz Trần mời tôi đến ăn để ủng hộ chị Nicole, chủ nhà hàng. Ba ngày sau, tôi trở lại, cũng buổi trưa với Việt Dzũng, chị Nicole cho tôi biết, Topaz Trần dặn chị, bất cứ lúc nào tôi đến, thì đừng lấy tiền và ghi vào “trương mục riêng của Topaz...” Tôi nhờ chị Nicole nói lại với Topaz, ngoài tôi, nếu có thêm Việt Dzũng thì có OK? Ít tiếng sau, Topaz gọi cho tôi ở tòa soạn, nói, ai chứ Việt Dzũng thì Topaz vui lắm, để được mời vào “account” riêng của Topaz ở Pagoda.
Ðấy là thời khởi đầu huy hoàng của Topaz Trần trong lãnh vực địa ốc. Ðấy cũng là thời gian nữ ký giả Connie Chung của nhật báo Register (không biết có phải qua sự giới thiệu của Topaz?) ngỏ ý muốn phỏng vấn Việt Dzũng cho tờ Register. (5) Việt Dzũng nhận lời và chúng tôi “nhất trí” chọn Pagoda để Dzũng trả lời phỏng vấn với tư cách nhạc sĩ kiêm tổng thư ký tòa soạn Nhân Chứng. Vì, chúng tôi không muốn Connie Chung thấy được “thực trạng” nghèo nàn tới đáng xấu hổ của cái gọi là tòa soạn Nhân Chứng, thuở đó.
(Kỳ sau tiếp)
Tôi yêu tất cả những ca khúc của Dzũng trong “Kinh Tỵ Nạn” tới độ, hai ngày sau, tôi mời thêm một số bằng hữu tôi quý, trong số đó, có Topaz Trần, để nghe “Người buông xuôi về nơi đáy nước / Người có mộng một nấm mộ xanh / Biển ngây ngô hay biển man rợ / Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ”?
Thời gian này, cũng là thời gian chúng tôi mới khởi sự thực hiện nguyệt san Nhân Chứng mà, linh hồn của phần kỹ thuật, sắp chữ bằng máy IBM (quả cầu, bỏ dấu tay) là Việt Dzũng.
Thời gian này, quận hạt Orange County có rất ít nhà hàng. Một trong những nhà hàng thuộc hạng sang, là nhà hàng Pagoda, ra đời, tọa lạc gần ngã tư Harbor và Garden Grove. Một buổi trưa, Topaz Trần mời tôi đến ăn để ủng hộ chị Nicole, chủ nhà hàng. Ba ngày sau, tôi trở lại, cũng buổi trưa với Việt Dzũng, chị Nicole cho tôi biết, Topaz Trần dặn chị, bất cứ lúc nào tôi đến, thì đừng lấy tiền và ghi vào “trương mục riêng của Topaz...” Tôi nhờ chị Nicole nói lại với Topaz, ngoài tôi, nếu có thêm Việt Dzũng thì có OK? Ít tiếng sau, Topaz gọi cho tôi ở tòa soạn, nói, ai chứ Việt Dzũng thì Topaz vui lắm, để được mời vào “account” riêng của Topaz ở Pagoda.
Ðấy là thời khởi đầu huy hoàng của Topaz Trần trong lãnh vực địa ốc. Ðấy cũng là thời gian nữ ký giả Connie Chung của nhật báo Register (không biết có phải qua sự giới thiệu của Topaz?) ngỏ ý muốn phỏng vấn Việt Dzũng cho tờ Register. (5) Việt Dzũng nhận lời và chúng tôi “nhất trí” chọn Pagoda để Dzũng trả lời phỏng vấn với tư cách nhạc sĩ kiêm tổng thư ký tòa soạn Nhân Chứng. Vì, chúng tôi không muốn Connie Chung thấy được “thực trạng” nghèo nàn tới đáng xấu hổ của cái gọi là tòa soạn Nhân Chứng, thuở đó.
(Kỳ sau tiếp)
Chú
thích:
(1) “Cậu Út”, nickname Trương Trọng Trác (1940-2009) đặt cho Việt Dzũng khi chúng tôi tập trung quanh tạp chí Nhân Chứng rồi tuần báo Tay Phải, hồi đầu thập niên 1980. Trong anh em, Dzũng nhỏ nhất và, cũng đa tài, đa năng nhất, nên được mọi người cưng chiều nhất.
(2) Trần Thu Miên kể, ngay từ những ngày đầu ở trại tỵ nạn Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, Việt Dzũng và Trần Thu Miên đã có những buổi sinh hoạt văn nghệ “tự phát” liên tục...
(3), (4) Nguồn: Wikipedia - Tiếng Việt.
(5) Connie Chung (1946-) Sau đấy đã rời tờ Register, để trở thành cộng tác viên nổi tiếng của những hệ thống truyền hình lớn như NBC, CBS, CNN và MSNBC ở New York. Cho tới ngày về hưu, ba lần bà được trao giải Emmy dành cho những nhà báo xuất sắc nhất trong năm (Theo Wikipedia).
(1) “Cậu Út”, nickname Trương Trọng Trác (1940-2009) đặt cho Việt Dzũng khi chúng tôi tập trung quanh tạp chí Nhân Chứng rồi tuần báo Tay Phải, hồi đầu thập niên 1980. Trong anh em, Dzũng nhỏ nhất và, cũng đa tài, đa năng nhất, nên được mọi người cưng chiều nhất.
(2) Trần Thu Miên kể, ngay từ những ngày đầu ở trại tỵ nạn Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, Việt Dzũng và Trần Thu Miên đã có những buổi sinh hoạt văn nghệ “tự phát” liên tục...
(3), (4) Nguồn: Wikipedia - Tiếng Việt.
(5) Connie Chung (1946-) Sau đấy đã rời tờ Register, để trở thành cộng tác viên nổi tiếng của những hệ thống truyền hình lớn như NBC, CBS, CNN và MSNBC ở New York. Cho tới ngày về hưu, ba lần bà được trao giải Emmy dành cho những nhà báo xuất sắc nhất trong năm (Theo Wikipedia).
Bài
liên quan
*
*
Du Tử Lê
Friday, January 03, 2014 6:12:18 PM
(Tiếp
theo kỳ trước)
Như
một vài thân hữu khác, Topaz Trần trở thành “thành viên” của nhóm NC rồi tuần
báo Tay Phải (TP). Khi thời gian cho phép, đôi lần Topaz cũng cùng chúng tôi
đi... “lưu diễn”.
Nói tới “lưu diễn”, tất cả chúng tôi đều trông vào Việt Dzũng, một trong vài yếu tố quyết định sự thành, bại của các chuyến đi, dù gần hay xa.
Nói tới “lưu diễn”, tất cả chúng tôi đều trông vào Việt Dzũng, một trong vài yếu tố quyết định sự thành, bại của các chuyến đi, dù gần hay xa.
Ðám Cưới Việt Dzũng và Bebe Hoàng Anh (Hình: Ngọc
Hoài Phương)
Cũng ngay từ những tháng khởi đầu của thập niên
1980s, Dzũng đã ủng hộ ý kiến, đem tờ NC đến với người đọc. Khi chúng ta không
có một phương tiện quảng bá nào khác. Tôi lãnh nhiệm vụ liên lạc với nhà thơ
Phạm Kim, đại diện NC ở thành phố Tacoma, tiểu bang Washington. (6) Bạn tôi sốt
sắng nhận lời! Chúng tôi hào hứng “lên kế hoạch” với “mũi nhọn” chính là Việt
Dzũng. Ðể thêm phần “rậm đám”, chúng tôi rủ Quỳnh Như ngâm thơ, Cao Ðông Khánh
đọc thơ. (7) Ðoàn Vững thổi sáo... Tôi lo việc giới thiệu Nhân Chứng và, TN lo tất
cả những việc không tên còn lại...
Dù mưa gió sập sùi suốt thời gian “gánh hát” chúng tôi có mặt tại Tacoma, nhưng sự thành công đã vang dội tới Seattle. Khiến nhà văn Huy Quang-Vũ Ðức Vinh, chủ nhiệm tờ Ðất Mới, liên lạc, mời chúng tôi đến Seattle, nói chuyện và trình diễn tại trụ sở Hội Thân Hữu Việt-Miên-Lào, Seattle... (8)
Ði đến đâu, Dzũng cũng được đồng bào các giới chào đón, như một biểu tượng thương yêu của người tỵ nạn. Có thể nhiều người không biết rằng, bên cạnh những “Kinh tỵ nạn”, tình ca quê hương, Việt Dzũng cũng có khá nhiều tình khúc. Từ những tình khúc nhẹ nhàng, xây trên nền quê hương khuất bóng, như “Tôi muốn mời em về”, tới những tình khúc viết về tình yêu đôi lứa. Trong số đó, cũng không ít những ca khúc đậm dấu đoạn lìa, chia tan... Ðiều này cũng dễ hiểu. Bởi căn bản, Dzũng vẫn là một người trẻ, (quá trẻ), lại cực kỳ nhạy cảm...
Việt Dzũng thường chỉ hát những tình khúc nặng cảm thức lứa đôi trong những trường hợp đặc biệt, với số bằng hữu thật giới hạn. Lý do, Dzũng muốn mọi người ghi nhận một hình ảnh về Việt Dzũng thôi. Ðó là hình ảnh Việt Dzũng của nhạc quê hương, tỵ nạn và đấu tranh. Dzũng nói, Dzũng không muốn ai thấy hình ảnh yếu đuối, ủy mị (?)của Dzũng. Dù ở đời thường, Dzũng rất dễ chảy nước mắt...
Trong sinh hoạt riêng tư, tôi và Lãm (một người bạn của tôi thưở đó), từng chứng kiến đôi lần những giọt nước mắt của Dzũng, ngập ngừng lăn khỏi đôi mắt trẻ thơ, trên khuôn mặt rất “babyface” ấy. Ðó là thời điểm của cuộc tình Dzũng và BeBe Hoàng Anh ở giai đoạn mới chớm...
Tôi nhớ, cuộc tình Việt Dzũng/ BeBe Hoàng Anh bắt đầu vào khoảng cuối năm 1984, khi Lãm giới thiệu BeBe Hoàng Anh với tôi, mục đích để BeBe Hoàng Anh tiếp tay, phát triển tờ báo TP. Vì BeBe Hoàng Anh chưa tốt nghiệp, nên hai người gặp nhau ở căn chung cư của Lãm, đường King, Santa Ana thường hơn ở tòa soạn. Khi “Cậu Út” của chúng tôi thú nhận đã “fall in love” BeBe Hoàng Anh, tôi và Lãm gia công vun vào, với tất cả yêu thương và, hân hoan dành cho đôi bạn trẻ.
Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc tình Việt Dzũng/BeBe Hoàng Anh có phần chập chờn, bấp bênh, với nhiều ngày Dzũng không gặp BeBe Hoàng Anh! Và, chúng tôi cũng không biết tìm BeBe Hoàng Anh ở đâu!
Do quá nhậy cảm, Dzũng rơi vào trạng thái tâm lý tựa như tuyệt vọng. Vì thế, nhiều đêm, Dzũng dục tôi dời căn chung cư của Lãm, trở về tòa soạn, đường Ranchero Way, để nghe Dzũng hát tình khúc...
Theo tôi, đó là những giây phút Dzũng sống thực nhất. Dzũng không che đậy, không kềm chế cảm xúc mình. Như thể nó không thể khác. Tình cảm thật? - Là thế đấy!
Cũng ở thời điểm này, không biết có phải do tâm trạng tuyệt vọng hay không, Dzũng đã phổ nhạc bài thơ “Thu khúc một” của tôi và, hát cho tôi nghe nhiều lần:
Dù mưa gió sập sùi suốt thời gian “gánh hát” chúng tôi có mặt tại Tacoma, nhưng sự thành công đã vang dội tới Seattle. Khiến nhà văn Huy Quang-Vũ Ðức Vinh, chủ nhiệm tờ Ðất Mới, liên lạc, mời chúng tôi đến Seattle, nói chuyện và trình diễn tại trụ sở Hội Thân Hữu Việt-Miên-Lào, Seattle... (8)
Ði đến đâu, Dzũng cũng được đồng bào các giới chào đón, như một biểu tượng thương yêu của người tỵ nạn. Có thể nhiều người không biết rằng, bên cạnh những “Kinh tỵ nạn”, tình ca quê hương, Việt Dzũng cũng có khá nhiều tình khúc. Từ những tình khúc nhẹ nhàng, xây trên nền quê hương khuất bóng, như “Tôi muốn mời em về”, tới những tình khúc viết về tình yêu đôi lứa. Trong số đó, cũng không ít những ca khúc đậm dấu đoạn lìa, chia tan... Ðiều này cũng dễ hiểu. Bởi căn bản, Dzũng vẫn là một người trẻ, (quá trẻ), lại cực kỳ nhạy cảm...
Việt Dzũng thường chỉ hát những tình khúc nặng cảm thức lứa đôi trong những trường hợp đặc biệt, với số bằng hữu thật giới hạn. Lý do, Dzũng muốn mọi người ghi nhận một hình ảnh về Việt Dzũng thôi. Ðó là hình ảnh Việt Dzũng của nhạc quê hương, tỵ nạn và đấu tranh. Dzũng nói, Dzũng không muốn ai thấy hình ảnh yếu đuối, ủy mị (?)của Dzũng. Dù ở đời thường, Dzũng rất dễ chảy nước mắt...
Trong sinh hoạt riêng tư, tôi và Lãm (một người bạn của tôi thưở đó), từng chứng kiến đôi lần những giọt nước mắt của Dzũng, ngập ngừng lăn khỏi đôi mắt trẻ thơ, trên khuôn mặt rất “babyface” ấy. Ðó là thời điểm của cuộc tình Dzũng và BeBe Hoàng Anh ở giai đoạn mới chớm...
Tôi nhớ, cuộc tình Việt Dzũng/ BeBe Hoàng Anh bắt đầu vào khoảng cuối năm 1984, khi Lãm giới thiệu BeBe Hoàng Anh với tôi, mục đích để BeBe Hoàng Anh tiếp tay, phát triển tờ báo TP. Vì BeBe Hoàng Anh chưa tốt nghiệp, nên hai người gặp nhau ở căn chung cư của Lãm, đường King, Santa Ana thường hơn ở tòa soạn. Khi “Cậu Út” của chúng tôi thú nhận đã “fall in love” BeBe Hoàng Anh, tôi và Lãm gia công vun vào, với tất cả yêu thương và, hân hoan dành cho đôi bạn trẻ.
Tuy nhiên, giai đoạn đầu của cuộc tình Việt Dzũng/BeBe Hoàng Anh có phần chập chờn, bấp bênh, với nhiều ngày Dzũng không gặp BeBe Hoàng Anh! Và, chúng tôi cũng không biết tìm BeBe Hoàng Anh ở đâu!
Do quá nhậy cảm, Dzũng rơi vào trạng thái tâm lý tựa như tuyệt vọng. Vì thế, nhiều đêm, Dzũng dục tôi dời căn chung cư của Lãm, trở về tòa soạn, đường Ranchero Way, để nghe Dzũng hát tình khúc...
Theo tôi, đó là những giây phút Dzũng sống thực nhất. Dzũng không che đậy, không kềm chế cảm xúc mình. Như thể nó không thể khác. Tình cảm thật? - Là thế đấy!
Cũng ở thời điểm này, không biết có phải do tâm trạng tuyệt vọng hay không, Dzũng đã phổ nhạc bài thơ “Thu khúc một” của tôi và, hát cho tôi nghe nhiều lần:
“trăng khuyết, như đời tôi
cũng thôi, một kiếp người
em về, khuya có vui (?)
tôi và đêm nhớ người...
gió biếc như tình tôi
cung chiều lên tiếng gọi
về kịp không hỡi em
vầng trăng ta khuyết rồi
cũng thôi, một kiếp người
em về, khuya có vui (?)
tôi và đêm nhớ người...
gió biếc như tình tôi
cung chiều lên tiếng gọi
về kịp không hỡi em
vầng trăng ta khuyết rồi
(...)
em ở đâu đêm qua?
có nghe hồn anh tắt vội
buồn vương giọt nước mắt
cho giá lạnh cội áo quán
có nghe hồn anh tắt vội
buồn vương giọt nước mắt
cho giá lạnh cội áo quán
(...)
mây khói ru tình tôi
nhớ thương một kiếp người
em về khuya có vui (?)
tôi về đêm nhớ người
trăng khuyết như hồn tôi
ván quan đã đóng rồi
về kịp không hỡi em
vầng trăng ta khuyết rồi!” (9)
nhớ thương một kiếp người
em về khuya có vui (?)
tôi về đêm nhớ người
trăng khuyết như hồn tôi
ván quan đã đóng rồi
về kịp không hỡi em
vầng trăng ta khuyết rồi!” (9)
Khi Dzũng hát tới những câu “em về khuya có vui”
hoặc “về kịp không hỡi em / Vầng trăng ta khuyết rồi”... (vốn là những câu hỏi
- không có câu trả lời), thì đó cũng là lúc Dzũng nhắm mắt, mặc cho đôi dòng lệ
lăn dài trên gương mặt trẻ thơ của mình. Phần tôi, tôi cũng không đủ sức đem
mình khỏi chiếc ghế, dù chỉ để đặt tay lên vai Dzũng, như một cử chỉ dỗ dành,
cảm thông... bất lực!!!
Những lúc ấy, tôi bẵng quên chính tôi cũng đang ngợp sâu trong những câu hỏi mình từng viết xuống - Mà cùng với nước mắt xót xa, tôi ước sao, tiếng hát, câu hỏi của Dzũng cất lên trong căn nhà lạnh lẽo, hoắm sâu dưới tầng tầng bóng đêm, có thể bay đến BeBe Hoàng Anh!!!
Bây giờ, khi tôi viết những dòng chữ này (thì) “ván quan” (câu chữ của Dzũng - không có trong nguyên bản thơ) đã thực sự “đóng rồi”... BeBe Hoàng Anh không chỉ “về kịp” mà hơn thế, BeBe Hoàng Anh đã “ở lại” giữa cuộc đời của Dzũng, một cách tốt đẹp, từ nhiều chục năm qua.
Nhiều ngày, từ khi nhận được hung tin về Dzũng, tôi lại tự hỏi, cách gì BeBe Hoàng Anh có thể vượt những “nhớ thương một kiếp người”, khi Dzũng không còn nữa? Vĩnh viễn không còn nữa! Dù chỉ một thoáng xuất hiện, đâu đó, trên mặt địa cầu này?
Du Tử Lê,
(Còn tiếp một kỳ)
________
(6) Sau thời gian tạm cư ở Tacoma, Phạm Kim di chuyển gia đình về thành phố Seattle. Tại nơi ở mới này, khoảng giữa thập niên 1990s, ông xuất bản tờ Người-Việt-Tây-Bắc; được ghi nhận là một trong vài tờ báo lâu đời và thành công nhất vùng.
(7) Nữ nghệ sĩ Quỳnh Như hiện phải điều trị dài hạn trong một Nursing Home ở quậm Cam. Nhà thơ Cao Ðông Khánh sinh năm 1941 tại Gia Ðịnh. Ông mất ngày 12 tháng 12 năm 2000, tại Houston, Texas.
(8) Cố nhà văn Huy Quang/Vũ Ðức Vinh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Ông mất ngày 9 tháng 12 năm 2005 ở Seattle, tiểu bang Washington State. Là sĩ quan cấp tá binh chủng KQ/VNCH, năm 1965, ông được Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm vào chức vụ tổng giám đốc cục Vô Tuyến Truyền Thanh. Trước năm 1954, ông đã có 2 tác phẩm do nhà Sinh Lực Hà Nội xuất bản. (Nguồn: Hoàng Song Liêm - Wikipedia - Tiếng Việt.)
(9) Bài “Thu khúc một” tôi viết và phổ biến khoảng giữa năm 1984. Việt Dzũng là người đầu tiên soạn thành ca khúc, với nhan đề “Trăng Khuyết”. Sau đó mới tới Vũ Thành An và Vĩnh Ðiện... “Trăng Khuyết” của VD được in lại trong “K. Khúc Của Lê / Tuyển tập 40 năm thơ-nhạc Du Tử Lê”, tr. 104. Nhóm Thân Hữu Du Tử Lê Tại Hoa Kỳ xb, 1998.
Những lúc ấy, tôi bẵng quên chính tôi cũng đang ngợp sâu trong những câu hỏi mình từng viết xuống - Mà cùng với nước mắt xót xa, tôi ước sao, tiếng hát, câu hỏi của Dzũng cất lên trong căn nhà lạnh lẽo, hoắm sâu dưới tầng tầng bóng đêm, có thể bay đến BeBe Hoàng Anh!!!
Bây giờ, khi tôi viết những dòng chữ này (thì) “ván quan” (câu chữ của Dzũng - không có trong nguyên bản thơ) đã thực sự “đóng rồi”... BeBe Hoàng Anh không chỉ “về kịp” mà hơn thế, BeBe Hoàng Anh đã “ở lại” giữa cuộc đời của Dzũng, một cách tốt đẹp, từ nhiều chục năm qua.
Nhiều ngày, từ khi nhận được hung tin về Dzũng, tôi lại tự hỏi, cách gì BeBe Hoàng Anh có thể vượt những “nhớ thương một kiếp người”, khi Dzũng không còn nữa? Vĩnh viễn không còn nữa! Dù chỉ một thoáng xuất hiện, đâu đó, trên mặt địa cầu này?
Du Tử Lê,
(Còn tiếp một kỳ)
________
(6) Sau thời gian tạm cư ở Tacoma, Phạm Kim di chuyển gia đình về thành phố Seattle. Tại nơi ở mới này, khoảng giữa thập niên 1990s, ông xuất bản tờ Người-Việt-Tây-Bắc; được ghi nhận là một trong vài tờ báo lâu đời và thành công nhất vùng.
(7) Nữ nghệ sĩ Quỳnh Như hiện phải điều trị dài hạn trong một Nursing Home ở quậm Cam. Nhà thơ Cao Ðông Khánh sinh năm 1941 tại Gia Ðịnh. Ông mất ngày 12 tháng 12 năm 2000, tại Houston, Texas.
(8) Cố nhà văn Huy Quang/Vũ Ðức Vinh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Ông mất ngày 9 tháng 12 năm 2005 ở Seattle, tiểu bang Washington State. Là sĩ quan cấp tá binh chủng KQ/VNCH, năm 1965, ông được Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm vào chức vụ tổng giám đốc cục Vô Tuyến Truyền Thanh. Trước năm 1954, ông đã có 2 tác phẩm do nhà Sinh Lực Hà Nội xuất bản. (Nguồn: Hoàng Song Liêm - Wikipedia - Tiếng Việt.)
(9) Bài “Thu khúc một” tôi viết và phổ biến khoảng giữa năm 1984. Việt Dzũng là người đầu tiên soạn thành ca khúc, với nhan đề “Trăng Khuyết”. Sau đó mới tới Vũ Thành An và Vĩnh Ðiện... “Trăng Khuyết” của VD được in lại trong “K. Khúc Của Lê / Tuyển tập 40 năm thơ-nhạc Du Tử Lê”, tr. 104. Nhóm Thân Hữu Du Tử Lê Tại Hoa Kỳ xb, 1998.
*
*
Du Tử Lê
Friday, January 10, 2014 3:50:04 PM
(Tiếp theo và hết)
Tuy
bị giới hạn khả năng di chuyển, nhưng ngay tự những ngày còn rất trẻ, Việt
Dzũng đã cho thấy, sức làm việc của Dzũng, tựa dòng thác không ngưng cuồn cuộn
chảy. Dzũng không thể ngồi yên dù chỉ một tiếng. Buông việc này, bắt việc kia.
Việc nào vào tay Dzũng, cũng đều trở thành dễ dàng, suôn sẻ. Từ dịch tin, đánh
máy, lay out bài vở, tới soạn nhạc, thiết lập chương trình lưu diễn, liên lạc
với anh em, bằng hữu năm châu, bốn biển, Dzũng đều hoàn tất một cách dễ dàng,
gọn nhẹ, giống như lấy vật trong túi. Tôi muốn nói, Việt Dzũng không chỉ quan
tâm tới lãnh vực âm nhạc mà, “Cậu Út” của chúng tôi còn rất nặng lòng với báo
chí, văn chương, chữ nghĩa nữa!
Từ trái qua: Việt Dzũng, Du Tử Lê, Trần Duy Ðức,
Trần Thị Diễm Phúc.
Cụ thể, đầu thập niên 1980s, vì một tháng NC mới
xuất bản một lần, lại nữa, không phải tháng nào cũng có... “show” lưu diễn nên,
để trám vào khoảng thời gian...” Không biết làm gì”... Dzũng đề nghị gom một số
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Ngạn, làm thành tuyển tập “Truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Ngạn.” Ðó là tác phẩm đầu tiên của họ Nguyễn ở Toronto, Canada, được ấn hành
tại Hoa Kỳ. Sau truyện Nguyễn Ngọc Ngạn là tập thơ “Lịch sử tình yêu,” cũng là
thi phẩm đầu tay của Cao Ðông Khánh và, tập truyện “Tan theo ngày nắng vội” của
tôi. Tất cả mọi công đoạn đều một tay Dzũng đảm nhận. Ngay cả việc phát hành,
Dzũng cũng nhận phụ trách. Thời gian đó, quận hạt Orange County và vùng Los
Angeles chưa có tiệm sách. Sách báo sản xuất được gửi bán ở một số chợ bán thực
phẩm Á Ðông. (10)
Tôi không biết hai tác phẩm của hai bạn văn kia, có
những “tai nạn” đáng tiếc nào chăng? Thí dụ “trùng tu” bỏ dấu thành “trúng tủ,”
“chữ nghĩa” thành “chủ nghĩa,” “dâm đãng” thành “đảm đang” cùng nhiều “tai nạn”
ghê rợn hơn nữa... Vì Việt Dzũng phải bỏ dấu bằng tay...
Song song với mối bận tâm về lãnh vực văn chương,
Dzũng vẫn là người chủ động gần như tất cả những... “show lưu diễn” của chúng
tôi, thuở sinh hoạt trình diễn của tập thể Việt tỵ nạn còn cực kỳ “hoang vắng”!
Thuở mà sinh hoạt văn nghệ cũng như báo chí chưa hề cho cộng đồng tỵ nạn Việt
một chút tia sáng cuối đường hầm nào.
Tôi nhớ khi tôi kể với Dzũng, người đại diện của tạp
chí NC ở Calgary ngỏ ý muốn mời anh em NC viếng thăm miền Tây Canada một lần
cho biết, Dzũng bảo, sao không nghĩ tới việc biến cuộc viếng thăm thành một
“show lưu diễn”? Thế là, một tháng sau, “gánh hát” của chúng tôi lại “đường
trường xa...” tới một xứ sở, một chân trời hoàn toàn xa lạ.
Kỳ đó, ngoài số thành viên “cơ hữu” như Việt Dzũng,
Cao Ðông Khánh, Quỳnh Như... chúng tôi còn mời được nữ danh ca Thanh Thúy, kịch
sĩ Hoàng Long. Cùng với Việt Dzũng, họ là những tên tuổi dấy lên cơn bão thương
yêu nơi khán giả Việt ở miền Tây Canada này...
Những ca khúc cũ, mới những tưởng đã bị chôn dưới
tàn tro lịch sử sang trang, hay vùi sâu đáy biển đông thì, được “gánh hát” của
chúng tôi làm sống lại. Nếu tôi nhớ không lầm thì bất cứ ca khúc nào được đồng
bào yêu cầu, nữ danh ca Thanh Thúy, cũng như Việt Dzũng đều không từ chối, nếu
họ thuộc. Sau buổi diễn, trả lời câu hỏi của tôi, người nữ danh ca của hai mươi
năm VHNT miền Nam cho biết, chị hát không chỉ vì yêu cầu của đồng bào mà, còn
vì đam mê của chính chị nữa:
“Thúy đâu nghĩ, có ngày được hát lại cho hàng ngàn
khán giả nghe những ca khúc mà mình từng một thời yêu thích...” Linh hồn ca
khúc “Ướt mi,” một sáng tác của cố nhạc sĩ TCS, nói. (11)
Tuy nhiên, với chúng tôi, kỷ niệm đáng nhớ nhất của
những “show trình diễn” có lẽ là kỳ chúng tôi “trình diễn” tại Houston lần thứ
nhất - Sau khi “Cậu Út” và Lê Văn Hào (tức nhà thơ Vũ Hà Du) trần thân dựng
bảng café Tay Trái từ A tới Z cho chúng tôi ở ngã tư Faiview và Trask, thuộc
thành phố Santa Ana. Ðiều đáng nhớ nhất, không phải vì sân khấu nhỏ Tay Trái là
nơi trở lại thường trực của tiếng hát Julie. Cũng không phải đó là địa điểm xuất
hiện đầu tiên của nhạc sĩ Trần Duy Ðức, đôi bạn trẻ Vũ Kiểm/Hương Thơ... Mà,
sau khi thấy Tay Trái đứng vững, có lợi tức rồi, Lê Văn Hào bàn với Dzũng trở
lại Houston, mở nhà in Thế Giới (ở đường Bell) - Làm đầu cầu cho anh em NC và
TP, khi sa cơ, thất thế, có chỗ để lui về...
Ðó là năm 1982, “Cậu Út” phối hợp với Lê Văn Hào và
nhà văn Lê Văn Phúc (12) đã tổ chức buổi ra mắt tập truyện “Tan theo ngày nắng
vội.”
Tôi không biết có bao nhiều ngày nắng ấm đã tan đi
một cách vội vã (?).Chỉ biết, sau đó, một cuộc tình dẫn tới một hôn nhân tốt
đẹp giữa nhạc sĩ Trần Duy Ðức thuộc “gánh hát” của chúng tôi và một thành viên
nhóm Thế Hệ Trẻ ở Houston, Lê Nguyệt Hạnh.
Hai nhân vật tích cực góp phần vào sự tác hợp cho
“đôi trẻ” nên duyên phận, chính là Lê Văn Hào và Việt Dzũng vậy.
Kể lại mối
lương duyên của Nguyệt Hạnh/Trần Duy Ðức, tôi chỉ muốn nhấn mạnh, song song với
chủ tâm tận hiến cuộc đời cho lý tưởng tự do, nhân quyền,... Việt Dzũng còn là
người thủy chung, tận tụy với bằng hữu. Như một trong những góc khuất của tác
giả “Một chút quà cho quê hương.”
Từ đó, tôi thấy, Việt Dzũng xứng đáng với mọi danh
hiệu truy tặng cho Dzũng... Riêng cá nhân tôi, tôi muốn ghi nhận Việt Dzũng như
một trong những vốn quý của tập thể Việt, nơi quê người.
Dù bây giờ, Việt Dzũng không còn nữa, nhưng những
đóng góp, những đầu tư của Việt Dzũng cho tự do, nhân quyền và tình người, sẽ
mãi còn là những ngọn lửa ở được với mai sau.
Du Tử Lê
(Tháng 12, 2013)
(Tháng 12, 2013)
Chú
thích:
(10) Khoảng giữa thập niên 1980, Orange County mới
có một tiệm sách nhỏ do nguyên giáo sư Vũ Văn Niên chủ trương, và chị ông là
người trông nom, ở thành phố Santa Ana. Sau đó, mới tới tiệm sách Thăng Long ở
vùng Los Angeles...
(11) Nữ danh ca Thanh Thúy hiện cư ngụ tại miền Bắc
California. Một số thân hữu cho biết, nhiều năm gần đây, chị đã chọn hẳn con
đường tu tại gia, ấn tống kinh sách và, làm từ thiện... Trong khi kịch sĩ Hoàng
Long chọn thành phố Boston, Mass, để an cư.
(12) Lê Văn Phúc là tác giả tập tạp văn “Tôi làm tôi
mất nước,” được nhiều người biết đến
No comments:
Post a Comment