Vũ Tường (University of Oregon)
TM111 chuyển ngữ
Tác
giả gửi tới Dân Luận
Thứ
Sáu, 03/01/2014
Dân
Luận:
Xin chân trọng cảm ơn tác giả Vũ Tường đã
chia sẻ bài nghiên cứu bằng tiếng Anh của mình với Dân Luận, và cũng xin cảm ơn
thành viên TM111 đã nhận lời chuyển ngữ tài liệu này sang tiếng Việt để giới
thiệu với độc giả.
Lời
Cảm Tạ
Chương
này được viết ra với sự ủng hộ của Chương trình Dân Chủ và Phát Triển, thuộc
Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Địa Phương Princeton, đại học Princeton. Tôi xin tri
ân chương trình này và những vị giám đốc của chương trình là Atul Kohli và
Deborah Yashar đã hỗ trợ tôi. Tôi cũng tri ân những lời bình phẩm giá trị của
Donald Emmerson, Donald Keyser, James Ockey, T. J. Pempel, Gi-wook Shin, và
David Straub đã đóng góp trong một phiên bản trước đây.
Lời
Giới thiệu
Chương
sách này có mục đích nhận diện và so sánh những mô hình chính về sự chuyển biến
quốc gia và nhà nước tại Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc và Việt Nam đều ở cùng
một vùng địa lý lân cận với nhau. Cả hai đều là láng giềng nhỏ bé hơn nhiều so
với Trung Quốc, và đều hiện hữu trong một lịch sử chịu ảnh hưởng văn hóa và
chính trị của Trung Quốc trước thời hiện đại. Những phát triển trước thời hiện đại
đã tạo nên một Hàn Quốc thuần chất hơn về mặt sắc tộc, ổn định hơn về mặt chính
trị so với Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều sự giống nhau bên ngoài, nhưng
vận mệnh của cả hai nước bắt đầu tách ra từ cuối thế kỷ 19. Mặc dù cả hai đều
bị lệ thuộc, Hàn Quốc thì bị lệ thuộc vào một quốc gia láng giềng Á Châu (Nhật
bản), còn Việt Nam thì bị lệ thuộc vào một nước Tây phương đến từ xa (Pháp).
Hàn Quốc cũng trở thành thuộc địa sau Việt Nam nhiều thập kỷ, và là một thuộc
địa bị cai trị bởi một chính quyền thống nhất. Trái lại, Việt Nam bị chia ra
làm ba vùng hành chính có nền pháp luật riêng rẽ. Mặc dù trong thời chiến tranh
lạnh cả hai quốc gia đều bị chia cắt ra làm hai, nhà nước cộng sản và nhà nước
chống cộng, nhưng Việt Nam được thống nhất dưới chế độ cộng sản sau một cuộc
chiến tranh hết sức lâu dài và tàn bạo. Chính quyền cộng sản Bắc Triều Tiên
cũng nỗ lực thống nhất đất nước bằng bạo lực, nhưng cuộc chiến của họ phải chấm
đứt sau ba năm chiến tranh tương tàn. Nam Hàn dần dà trở nên một quốc gia giàu
có và dân chủ, trái với Bắc Hàn và Việt Nam nghèo khổ và độc tài. Điều đáng
quan tâm là tại cả Việt Nam lẫn Nam Hàn người ta đều thấy sự hồi phục tinh thần
ái quốc của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. [1] Một Hàn Quốc vẫn còn bị chia cắt
đã làm thất vọng nhiều người dân Nam Hàn thì nhiều người có thể hiểu được, thế
nhưng tại sao một nước Việt Nam thống nhất lại không làm hài lòng những người
Việt Nam yêu nước? Điều mỉa mai ngầm trong việc so sánh giữa Việt Nam và Nam
Hàn ngày nay khiến ta nghĩ đến câu nói nổi tiếng của Leo Tolstoy rằng “những
gia đình hạnh phúc thì đều như nhau, còn mỗi gia đình mất hạnh phúc thì lại đau
khổ theo cách riêng của mình.” [2]
Con
đường khúc khuỷu của Hàn Quốc và Việt Nam có lẽ có điều gì liên quan đến vị thế
“trung cường” của họ. [3] Cả hai quốc gia đều có diện tích trung bình và nằm
giữa các đại cường quốc. Việt Nam thì nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, còn Hàn
Quốc thì cùng biên giới và hải giới với Trung Quốc, Nga, và Nhật. Cả hai Việt
Nam và Hàn Quốc đều cách xa Hoa Kỳ bởi Thái Bình Dương. Vị thế trung cường của
họ khiến cả hai quốc gia về mặt địa chính trị đều đáng để các đại cường tranh
giành với nhau. Cùng lúc đó, chính hai quốc gia này cũng đủ lớn để thách thức
các đại cường, hay là nếu dùng so sánh của Donald Deyser trong chương giới
thiệu, thì cả hai đều có khả năng “đấm vào mặt đối thủ nặng ký hơn mình.” Khi
chưa ra khỏi hẳn thời kỳ thuộc địa của mình, cả hai quốc gia rơi vào ngay tại
chỗ Bức Màn Sắt đã rơi xuống, và đây cũng không phải là trùng hợp ngẫu nhiên.
Cũng như vậy, việc quân đội Hoa Kỳ can thiệp vào cả hai nước (1965-73) cũng
không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên. Cả hai cuộc chiến tranh, chiến tranh
Hàn Quốc (1950-53) và chiến tranh Việt Nam (1965-73), không phải chỉ để ngăn
chặn khối Soviet mà còn để bảo vệ Hoa Kỳ khỏi phải đối đầu với cộng sản ngay
tại biên giới của mình. Tuy thiếu thốn khả năng quân sự nhưng lại đầy tham
vọng, cả hai Bắc Hàn và Bắc Việt vào thời điểm đó chọn cách thách thức lại biên
giới các đại cường đã ép buộc họ phải nhận. [4] Họ tự hào là tiền đồn của khối
xã hội chủ nghĩa, và việc họ hăng hái đối đầu với Hoa Kỳ tỏ lộ những yếu tố
trung cường.
Bài
viết này sẽ được chia ra làm ba phần chính. Sau lời bàn ngắn gọn về lịch sử
tiền hiện đại, phần đầu của bài viết sẽ chú mục đến sự hình thành tinh thần
quốc gia hiện đại tại Hàn Quốc và Việt Nam kể từ thế ký 19. Phần thứ nhì sẽ so
sánh quá trình xây dựng nhà nước hiện đại tại Bắc Việt và Nam Hàn. Thông tin về
hệ thống chính trị tại Bắc Việt Nam khá ít ỏi, nên tôi sẽ sử dụng dữ kiện chính
từ một đề tài nghiên cứu đang thực hiện. Trong phần kết luận, tôi sẽ bàn đến
những bài học về thống nhất đất nước tại Việt Nam cho Nam Hàn. Mặc dù người dân
tại một Hàn Quốc còn đang chia cắt có thể đang nhìn về Việt Nam với sự ghen tỵ,
nhưng họ cần phải để ý đến cái giá của sự thống nhất theo kiểu Việt Nam, nó đã
khiến cho số phận của phần đông người Việt không cải thiện được gi.
Hàn
Quốc và Việt Nam thời tiền hiện đại
Quan
hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc đối với Trung Quốc trong thời kỳ tiền hiện đại đều
theo một con đường giống nhau, bắt đầu từ lệ thuộc dẫn đến độc lập sau này.
Nước Việt Nam ngày nay xưa kia bắt đầu là một xã hội bộ lạc tại thung lũng sông
Hồng. Xã hội này đến năm 111 trước công nguyên thì rơi vào sự đô hộ của Trung
Quốc, và cứ như thế cho đến thế kỷ thứ 10. [5]5 Trong thời gian này có sự di
dân và hôn nhân dị chủng diễn ra ở tầm cỡ lớn. Văn hóa Trung Quốc được hấp thụ,
mặc dù văn hóa địa phương vẫn giữ một số đặc điểm của nó để phân biệt với văn
hóa Hoa. Sau khi lấy lại độc lập năm 823, các vua Việt Nam vẫn giữ mối quan hệ
thần phục với Trung Quốc. Họ đã chống lại những cuộc xâm chiếm từ phương Bắc
một cách thành công, chẳng hạn như cuộc xâm chiếm Mông Cổ vào thế kỷ 13. Tuy
nhiên, trong hai thập kỷ, giữa năm 1400 và 1418, thì Việt Nam lại bị nhà Minh bên
Trung Quốc thống trị. Tuy phần lớn giới sĩ phu quốc gia tạo nên “sự kháng cự
anh hùng” của Việt Nam chống lại Trung Quốc, quan hệ tiền hiện đại giữa Việt
Nam và Trung Quốc phần lớn vẫn mang tính hoà bình, và những thời kỳ chiến tranh
thì hiếm. [6]
Hàn
Quốc cũng bị Trung Quốc trực tiếp thống trị từ năm 108 trước công nguyên cho
đến thế kỷ thứ tư, chi có 400 năm thay vì bị lệ thuộc một nghìn năm như Việt
Nam. [7] Sau khi nền thống trị Trung Quốc bị lật đổ là thời kỳ Tam Quốc kéo dài
300 năm, trong đó ba vương quốc trung tâm là Koguryo, Paekche, và Silla tranh
nhau để hoàn thống toàn trị bán đảo này. Thoạt tiên Silla hợp tác với Trung
Quốc để đánh bại đối thủ “Hàn Quốc” của mình, nhưng sau đó lại đánh đuổi Trung
Quốc ra khỏi bờ cõi năm 676. Quan hệ thần phục sau đó giữa Hàn Quốc thống nhất
và Trung Quốc được đánh dấu bởi một vài mâu thuẫn cũng như giữa Việt Nam và
Trung Quốc vậy. Những nhà cai trị Hàn Quốc cũng kháng cự nhiều cuộc xâm lăng
của Trung Quốc, nhưng lại bị thua triều Mông trong thời gian từ năm 1270 đến
1356.
Lịch
sử Việt Nam từ sau khi giành lại độc lập với Trung Quốc được đánh dấu bởi nhiều
chia rẽ và xáo trộn chính trị hơn là lịch sử Hàn Quốc. Hàn Quốc được thống nhất
từ thế kỷ thứ 7, từ đó không hề mở rộng giang sơn, và trải qua ba triều đại trước
khi bị sáp nhập vào Nhật năm 1910. Trái lại, lãnh thổ của Việt Nam dần dà mở
rộng ra về phía Nam từ thung lũng sông Hồng, chiến thắng vương quốc Champa theo
Ấn độ giáo và Phật giáo vào thế kỷ 12 đến thế kỷ 15 (ngày nay là miền Trung
Việt Nam), và miền đông của vương quốc Khmer cũng theo Ấn độ giáo và Phật giáo
vào thế kỷ 16 đến 18 (ngày nay là miền Nam Việt Nam). Phần lớn lãnh thổ của
Việt Nam ngày nay không thuộc về Việt Nam lúc trước. Trong thế kỷ 16 – 18 Việt
Nam chứng kiến hai trận nội chiến, đầu tiên là giữa nhà Mạc và nhà Lê
(1527-1592), rồi giữa họ Trịnh phía Bắc, họ Nguyễn phía Nam, và các tướng nhà
Tây Sơn (1627-1802), tất cả là 240 năm – cùng độ dài thời gian với thời Tam
Quốc tại Hàn Quốc một nghìn năm trước. Điều gi vương triều Silla đã đạt được về
mặt lãnh thổ năm 676 thì nhà Nguyễn, vưong triều thứ 9 hay thứ 10 của Việt Nam
từ khi thoát khỏi lệ thuộc Trung Quốc, mãi đến năm 1802 nhà Nguyễn mới đạt
được.
Về
mặt xã hội, một khác biệt quan trọng nữa giữa Hàn Quốc và Việt Nam thời tiền
hiện đại là xã hội Việt Nam ít mang tính chất tôn ti trật tự triệt để hơn. Đến
thế kỷ 15 thì các nhà cai trị Việt Nam đã thành công hơn những vị đối quyền của
họ tại Hàn Quốc trong việc tẩy trừ giới quí tộc. Nước Việt Nam thời Nguyễn có
vẻ tập trung quyền hành vào trung ương hơn triều Yi của Hàn Quốc, vì giới
Yangban (quí tộc) của Hàn Quốc tạo thành một nhóm quyền lực mạnh tranh quyền
với nhà vua.
Về
mặt văn hóa, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo, Khổng giáo và tân
Khổng giáo cũng như Hàn Quốc. Đến tận thế kỷ 19, những giới học giả Việt vẫn
còn chưa nghĩ đến hay phân biệt thế giới theo tiêu chuẩn dân tộc. (tức là người
Việt thì khác biệt với người Hoa), mà họ phân biệt bằng những khái niệm văn hóa
chẳng hạn như những “lĩnh vực lễ nghi”. [8] Thế giới này chứa đựng những biên
giới chính trị nhưng lại thống nhất dưới một khung văn hóa đơn nhất chung quanh
“Bắc triều”(tức là Trung Quốc ngày nay), và từ đó Nam dân (tức Việt Nam ngày
nay) mong muốn được nhập vào. Cũng như Hàn Quốc, sự vay mượn khái niệm và thể chế
chính trị từ Trung Quốc đã giúp các nhà cai trị Việt Nam củng cố triều đại của
mình, và họ tự hào đứng vào thế giới văn hóa của Trung Quốc.
Sự
trỗi dậy của Hàn Quốc và Việc Nam với tư cách những quốc gia hiện đại
So
với Hàn Quốc, vị trí địa lý của Việt Nam đã đưa Việt Nam vào nhiều tương tác
với ngoại nquốc hơn Hàn Quốc. Ngưòi Tây phương đã can thiệp vào nội chiến Việt
Nam từ thế kỷ 16. Khi bị Việt Nam từ chối trao đổi thương mại và sinh hoạt
truyền giáo, nước Pháp đã đánh bại lực lượng nhà Nguyễn rồi chiếm đóng miền Nam
Việt Nam trong thập niên 1860. Sau một loạt xung đột ngắn ngủi, vua Nguyễn đã
phải chấp nhận sự bảo trợ của Pháp cho phần còn lại của đất nước năm 1884. Cho
đến cuối thế kỷ 19 các quan nhà Nguyễn nào từ chối không chịu chấp nhận chiến bại
đều lo tổ chức những cuộc nổi dậy để phục hồi nền quân chủ. Tinh thần quốc gia
cận đại mãi đến những năm 1900 mới xuất hiện, phần lớn nhờ vào những nhà trí
thức lưu lạc tại Nhật và Trung Quốc (chẳng hạn như Phan Bội Châu), và công
trình của những vị này lại có ít ảnh hưởng trong nước.
Trái
lại, Hàn Quốc bị cô lập nhiều hơn khi thời kỳ đế quốc bắt đầu tại Đông Á. [9]
Cũng như Việt Nam, quốc gia này chống cự lại áp lực từ Hoa Kỳ, Pháp, Nhật, và
không chịu mở cửa để giao dịch thương mại. Không có cường quốc ngoại quốc nào
muốn lập thuộc địa tại Hàn Quốc trừ Nhật, nhưng mãi sau này Nhật mới trở nên
cường quốc khi họ đánh bại Trung Quốc năm 1894 và đánh bại Nga năm 1905. Cả hai
trận chiến tranh đều xảy ra vì Hàn Quốc. Mặc dù Hàn Quốc dần dà trở thành thuộc
địa Nhật năm 1910, nhưng sự chậm trễ này (so với Việt Nam) đã giúp giới trí
thức Hàn đủ thời gian để phát triển và truyền bá một tinh thần quốc gia khi Hàn
Quốc còn giữ được độc lập. Công trình quan trọng nhất được tạo nên bởi Câu lạc
bộ Độc lập trong những năm 1896-1898. Câu lạc bộ này do Philip Jaisonn (Si
Chae-p’il), một nhà trí thức theo đạo Cơ đốc có bằng y khoa Mỹ và quốc tịch Mỹ
trước khi trở về Hàn. Mối đe dọa Nhật đối với Hàn Quốc, một cường quốc phi-Tây
phương và chống cơ đốc giáo, đã khiến cho đạo cơ đốc được xem như là đồng minh
và thu hút được người Hàn. [10] Ngược lại, cơ đốc giáo tại Việt Nam thuộc địa
là phát nguồn từ giáo hội Công giáo và được gắn liền với quyền lực thuộc địa.
Tôn giáo này đã không đóng góp gì vào tinh thần quốc gia của người Việt mà còn
bị tinh thần quốc gia nhắm vào để công kích. [11] Trong tình thế như vậy, phong
trào ngày 1 tháng 3 năm 1919 xảy ra tại Hàn Quốc với vai trò đóng góp quan
trọng của giáo hội cơ đốc là một điều không thể nào xảy ra được tại Việt Nam.
Để
đối ứng với phong trào ngày 1 tháng 3, qua đó hàng vạn người biểu tình phản đối
toàn quốc, Nhật đã nới lỏng kềm chế chính trị tại Hàn Quốc. [12] Chính sách này
là kết quả của sự đứng lên đòi hỏi dân chủ tại Nhật (“Taisho democracy”), do lý
tưởng của tầng lớp ưu tú tại Nhật muốn bắt chước phương Tây. Mãi đến năm 1931
thì chính sách này mới bị bãi bỏ. Từ năm 1920 đến 1925 Hàn Quốc chứng kiến sự
ra đời của một phong trào phục hồi văn hóa sôi nổi. [13] Một chính sách phóng
khoáng tương tự mãi đến năm 1936 mới được thi hành tại Việt Nam, khi Mặt Trận
Bình Dân lên nắm quyền tại Pháp, và chỉ kéo dài đến 1939 mà thôi. Vì có nền báo
chí tự do hơn và có nhiều tự do lập hội hơn nên Hàn Quốc đã có một tinh thần
quốc gia tân tiến hơn, từ đó Hàn Quốc đã tiến xa hơn Việt Nam một hay hai thập
niên. Một tổ chức mở như Sin’ganhoe (1927-1931), vốn được chính quyền thuộc địa
Nhật dung túng, vừa kết nạp người quốc gia vừa kết nạp người cộng sản, chỉ có
thể có được tại Việt Nam cuối thập niên 1930, và chỉ có được ở miền Nam Việt
Nam mà thôi (lý do sẽ được giải thích ở phần sau).
Trong
thời kỳ thuộc địa, người Hàn tranh luận về những khái niệm mới về quốc gia từ
nhiều cái nhìn khác nhau, kể cả chủ nghĩa xuyên Á, thuyết Darwin, chủ nghĩa
quốc gia dân tộc và chủ nghĩa quốc gia dân sự, [14] và chủ nghĩa quốc tế.
Gi-Wook Shin tranh luận rằng chủ nghĩa quốc gia dân tộc của Hàn Quốc là câu trả
lời cho cả chủ nghĩa thuộc địa và chủ nghĩa cộng sản. Cùng thời điểm, những nhà
hoạt động chống thực dân người Việt cũng có những cuộc tranh luận tương tự, tuy
nhiên cuộc tranh luận đó không được đào sâu như tại Hàn vì môi trường chính trị
kềm chế nặng nề hơn. [15] Những cuộc tranh luận này thường giới hạn trong những
nhóm nhỏ những nhà hoạt động, và họ lại hay thay đổi quan điểm theo thời gian.
Chẳng hạn như những bài viết của Phan Bội Châu phối hợp thuyết xuyên Á với
thuyết Darwin, và chủ nghĩa quốc gia dân tộc. [16]
Thuyết
xuyên Á mất đi sức hấp dẫn của nó sau khi Nhật thông đồng với Pháp để trục xuất
những sinh viên Việt Nam sang Nhật du học. [17] Cuộc tranh luận chống thực dân
dần dà thu hẹp vào đề tài tranh giành giữa chủ nghĩa quốc gia dân tộc và chủ
nghĩa quốc tế. Chuyện kể về chủ nghĩa quốc gia dân tộc bắt nguồn từ truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, [18] từ sự khẳng định “lịch sử 4000 năm chiến đấu
chống Trung Quốc để giữ vững nền độc lập”, và từ nỗi sợ hãi bị tuyệt chủng phát
xuất từ thuyết Darwin. Nhóm theo chủ nghĩa quốc tế cũng không phải là một khối
nguyên chất. Cũng giống như những người cộng sản Hàn vào thời điểm đó, nhiều
người Việt theo chủ nghĩa Stalin tin tưởng vào cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng
vẫn xem chủ nghĩa quốc gia dân tộc là một sức mạnh đáng kể có ích cho cuộc
chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân. Họ đã có lúc hợp tác với những người
Trotsky cực đoan hơn họ. Sự chuyển hướng chính sách của Quốc Tế 3 năm 1935 đã
giúp cho những người Stalinít hợp tác với những người quốc gia không cộng sản
cho đến năm 1948. Họ lập ra Việt Minh làm mặt trận thống nhất và dùng từ chủ
nghĩa quốc gia dân tộc để kêu gọi quần chúng. [19]
Tại
Hàn Quốc, thực tế chính trị sau 1945 tạo ra hai chế độ đối kháng nhau tại Bắc
và Nam Hàn. Tại miền Bắc, Kim Ilsung lập nên một nhà nước xã hội chủ nghĩa với
sự hỗ trợ của Liên Bang Xô Viết và Trung Quốc. Tại miền Nam, Rhee Syngman (một
cụu thành viên của Câu Lạc Bộ Độc Lập) trở nên tổng thống của một nước cộng hòa
chống cộng. Cả Bắc và Nam Hàn cố sử dụng chủ nghĩa quốc gia dân tộc để thống
nhất nhà nước và chế độ cho mình. [20] Kim tạo ra cảm tưởng là chế độ mà ông
theo đuổi không phải là chủ nghĩa Stalin mà là một chủ nghĩa xã hội đặc biệt
theo kiểu Hàn Quốc. Rhee phát động khái niệm “một dân tộc” để đoàn kết người
dân Nam Hàn chống lại cộng sản, thứ chủ nghĩa mà có lúc ông so sánh với bệnh
dịch. Trong đầu thập niên 1970, sau mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô, Kim phát
động khái niệm juche (chủ thể) như là một nguyên lý để định hướng nhà
nước Bắc Hàn cùng với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Sau khi nắm quyền sau cuộc đảo
chánh 1961, tướng Park Chung Hee của Nam Hàn đưa ra khẩu hiệu “hiện đại hóa đất
nước” như là một học thuyết mới cho nhà nước. Học thuyết này kết hợp chủ nghĩa
quốc gia dân tộc với chủ nghĩa chống cộng và học thuyết phát triển.
Nhiều
cuộc vận động tương tự xảy ra tại Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Chủ
nghĩa quốc gia dân tộc giúp những người Stalinít nắm quyền cuối năm 1945 và
lãnh đạo cuộc chiến giành độc lập với sự hợp tác đáng kể từ nhiều nhóm quốc gia
chống lại sự trở lại của Pháp. Tuy nhiên, trong khi cộng tác với những người
quốc gia thì những người Stalinít lại thủ tiêu hay đưa đi đày những nhà quốc
gia chống cộng (đảng Đại Việt), những người theo chủ nghĩa quốc tế Trốtky (Tạ
Thu Thâu), và những người bênh vực cho chủ nghĩa quốc gia dân sự (Phạm Quỳnh,
bị lên án là “hợp tác (với Pháp)”). [21]
Từ
khi chiến tranh lạnh xảy ra tại Âu châu, những người Stalinít Việt đáp ứng hăng
hái lời của Xô Viết kêu gọi những thành viên phe cộng sản nổi dậy lật đổ chủ
nghĩa đế quốc. [22] Họ bắt đầu thanh trừng những người không cộng sản ra khỏi
chính quyền. Họ toàn tâm ủng hộ chủ nghĩa Mao ít sau chiến thắng của cộng sản
Trung Quốc năm 1949. Một cuộc đấu tranh giai cấp tại làng quê được phát động
trong những năm 1953-1956 dưói sự chỉ huy của Trung Quốc, và những phong trào
trào chống hữu khuynh và Bước Nhảy Vọt được làm rập theo Trung Quốc (Bước Nhảy
Vọt thì sơ sài thôi). Những cuộc đấu tranh cứu nước không nhất thiết phải loại
ra đấu tranh giai cấp, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Trưởng Chinh đã phát
biểu trong một cuộc họp nội bộ năm 1953: “Cách mạng quốc gia dân chủ (về bản
chất) là cách mạng nông dân. Chiến tranh giải phóng đất nước về bản chất là
chiến tranh nông dân… Những người nông dân lãnh đạo chiến đấu bài phong và diệt
đế là cùng một lúc vừa là đấu tranh giai cấp vừa là đấu tranh giành độc lập. Đó
là cuộc đấu tranh giai cấp trong một cuộc đấu tranh giành độc lập và dưới hình
thức đấu tranh độc lập.” [23]
Những
nhà lãnh đạo cộng sản phải mất một thời gian mới lập ra được khẩu hiệu nối kết
chủ nghĩa quốc gia dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Cuối thập niên 1950 họ chế ra
được công thức “yêu nước là xây dựng chủ nghĩa xã hội,” biến lòng ái quốc
(tiếng Việt thường dùng cho chủ nghĩa quốc gia dân tộc) thành phục vụ chủ nghĩa
xã hội. [24] Khi họ quyết định phát động chiến tranh thống nhất đất nước, những
văn kiện nội bộ của Đảng xem xét nó theo những từ ngữ của học thuyết
Mác-Lê-Mao, đó là một cuộc cách mạng lật đổ chế độ thực dân mới để xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trên toàn đất nước. [25] Tuy nhiên, trước công chúng, cuộc chiến
tranh được đóng khung trong vòng “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Tuyên
truyền của Bắc Việt Nam cho thấy việc dùng lẫn lộn giữa chủ nghĩa quốc tế và
chủ nghĩa quốc gia, qua đó chủ nghĩa quốc tế được đề cao hơn chủ nghĩa quốc
gia, ít nhất là cho đến giữa thập niên 1960. Chẳng hạn như trong những năm
1955-1959, bốn tác giả được xuất bản nhiều nhất tại Bắc Việt trong thập niên
1950 là Lê nin (50 đầu sách), Stalin (29 đầu sách), Mao (12 đầu sách), và Hồ
Chí Minh (11 đầu sách). [26] Cứ mỗi 100 cuốn sách được in ra thì có một cuốn
của Lê nin. [27] Một tài liệu của Đảng Cộng sản về đề tài hệ thống phát thanh
được phát hành năm 1959 đã định nghĩa công tác của hệ thống là “tuyên truyền và
lôi kéo quần chúng ủng hộ các chính sách của Đảng và nhà nước, hướng dẫn người
dân thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập hợp quần chúng toàn quốc đấu
tranh để thống nhất đất nước, giáo dục quần chúng về chủ nghĩa quốc tế, xây
dựng vững mạnh tình đoàn kết quốc tế giữa dân tộc ta và các nước xã hội chủ
nghĩa, nhất là tại Đông Nam Á.” [28]
Một
cuộc khảo sát những sách giáo khoa năm 1956 cho các em lớp một (khoảng 6 tuổi)
cho thấy 84 trong số 328 bài học (25.6%) có nội dung chính trị. [29] Trong số
84 bài này, 32% dạy học sinh về những anh hùng quân đội cộng sản (đã hy sinh),
19% về “Bác Hồ”, 10% về cuộc sống cách mạng và cuộc sống xã hội chủ nghĩa, 7%
về miền Nam, những quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em (một về Lê nin thời trẻ),
và cuộc sống nông dân và công nhân. Chỉ có hai trong số 328 bài học chú trọng
đến lòng ái quốc tổng quát và một nói về một anh hùng trong lịch sử (Trần Quốc
Toản), trong khi đó một mình đề tài cải cách ruộng đất có đến hai bài. Nội dung
của cuốn sách giáo khoa cho thấy người ta dạy học sinh Việt Nam về lòng ái quốc
trong liên kết với lịch sử ít hơn dạy về chủ nghĩa xã hội trong liên hệ với
quốc tế. Nói chung, Đảng muốn thanh niên có niềm tin vững mạnh vào giá trị xã
hội chủ nghĩa và ý nguyện được chết cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa nếu “Bác Hồ”
và Đảng cần đến.
Bảng
1 để vào đây
Sau
khi rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc xảy ra, những người cộng sản Việt Nam ít
theo khuynh hướng quốc tế hơn (nhưng không đến độ như những đồng chí Bắc Triều
Tiên của họ). Họ cho phép nghiên cứu trở lại quá khứ “phong kiến” của Việt Nam
và bắt đầu bác bỏ chủ nghĩa Mao, xem nó là mối đe dọa cho nền độc lập của Việt
Nam. Họ vẫn trung thành với cuộc đấu tranh toàn cầu chống lại chủ nghĩa đế quốc
qua việc bác bỏ thuyết chung sống hòa bình của Khurshchev, cho đó là bán linh
hồn cho phe đế quốc. Khuynh hướng này có thể được thấy qua những thay đổi giữa
những phiên bản của cùng cuốn sách giáo khoa được bàn đến ở đoạn trên, phiên
bản năm 1956 và phiên bản năm 1972. [30] Trong phiên bản năm 1972 phát hành gần
cuối cuộc nội chiến, có 69 trong số 236 bài học (29%) có nội dung chính trị.
55% của 69 bài học này nói đến những anh hùng quân đội cộng sản (phần lớn đã hy
sinh), 14.5% nói về “Bác Hồ”, 11.6% nói về thống nhất đất nước và miền Nam, 10%
về nếp sống cách mạng và nếp sống xã hội chủ nghĩa, và 3% về “những người anh
em xã hội chủ nghĩa”. Phần lớn những bài học có nội dung chính trị phản ánh một
xã hội bị chính trị hóa do chiến tranh tạo ra. Phần lớn những bài học về anh
hùng cộng sản là vì cuộc chiến kéo dài đã tạo ra nhiều anh hùng hơn. “Bác Hồ”
mất năm 1969 nên xuất hiện ít hơn. Điều đáng kể là những bài học về chiến thắng
bây giờ lại nhiều gấp ba lần hơn những bài học về các nước xã hội chủ nghĩa anh
em. Trong khi đó thì con số những bài học về lòng ái quốc chung chung (2) và
anh hùng lịch sử (1) thì vẫn như cũ.
Tại
miền Nam, vốn là một quốc gia riêng biệt từ 1955 đến 1975, tổng thống Ngô Đình
Diệm tuyên bố rằng chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phong kiến, và chủ nghĩa cộng
sản là ba kẻ thù của quốc gia Việt Nam. Ông phát động “chủ nghĩa nhân vị”, một
học thuyết do Emmanuel Mounier, một triết gia Pháp và là một người công giáo
thế tục đặt ra, như là một sức mạnh thứ ba giữa hai ý thức hệ của chủ nghĩa tự
do và chủ nghĩa cộng sản của hai khối chiến tranh lạnh. Chủ nghĩa nhân vị nhắm
bảo vệ và phát triển tính xứng đáng của con người, tương phản với chủ nghĩa tự
do vốn tạo ra sự giải phóng giả tạo, và tương phản với chủ nghĩa cộng sản, vốn
đòi hỏi chiến tranh không ngừng nghỉ. [31] Bằng cách chọn một lựa chọn khác cho
hai ý thức hệ của chiến tranh lạnh, Ngô muốn xác định một tinh thần quốc gia
độc lập mặc dù chế độ của ông lệ thuộc vào Mỹ. Tuy nhiên, tự do văn hóa tại Nam
Việt Nam và việc Ngô Đình Diệm không kiểm soát được nền giáo dục tạo ra một số
giới hạn không cho phép chính quyền của ông thao túng chủ nghĩa quốc gia. Đến
thập niên 1960 thì sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến đưa đến một
phong trào chống Mỹ rộng lớn tại các thành phố miền Nam. [32] Phong trào này
đòi hỏi hoà bình và thống nhất, vừa mang tính bộc phát tự nhiên, vừa bị giật
dây bởi những điệp viên miền Bắc.
Sau
khi thống nhất đất nước, chế dộ cộng sản tiếp tục vận động tinh thần quốc gia
dân tộc trong chiến tranh với Trung Quốc, được họ dựng lên thành hình ảnh “sô
vanh và bá quyền”. Trong khi chiến tranh với Trung Quốc đang diễn ra là để “bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thì cuộc xâm lấn và chiếm đóng Kampuchea lại là
để bảo vệ “tình đoàn kết quốc tế với người dân Kampuchea”. Thay vì đề cao chủ
nghĩa quốc gia và để mặc chủ nghĩa cộng sản như khái niệm juche tại Bắc
Hàn, thì những người cộng sản Việt Nam lại tiếp tục bắt chủ nghĩa quốc gia phải
phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, như được thấy trong việc họ định nghĩa những công
tác quốc gia là “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.”
Đến đầu thập niên 1990, Bắc Hàn đã loại bỏ chủ nghĩa Mác Lê ra khỏi hiến pháp
của họ, và mang juche, hay đôi khi “chủ nghĩa Kim Ilsung” làm học thuyết mới. Song
song với Bắc Hàn nhưng yếu ớt hơn, Việt Nam cũng có những thay đổi rụt rè, với
“tư tưởng Hồ Chí Minh” được thêm vào chủ nghĩa Mác Lê làm ý thức hệ cho chế độ.
Như vậy Việt Nam vẫn từ chối không chịu loại bỏ chủ nghĩa Mác Lê.
Tại
Nam Hàn, chủ nghĩa bài Mỹ hình thành trong thập niên 1980 tiếp theo cuộc thảm
sát bởi chế độ độc tài. Một ý thức hệ mới, đám đông Minjung (kẻ bị áp
bức) hay “quần chúng” vừa mang ý nghĩa Mác xít vừa mang ý nghĩa cơ đốc giáo, và
tạo khái niệm đám đông là cốt lõi của đất nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi dân
chủ cho đến cuối thập niên 1990. [33] Phong trào Minjung ủng hộ thống
nhất đất nước với Bắc Hàn mà vẫn chống sự cai trị của quân đội, chống cộng, và
chống việc Nam Hàn làm đồng minh với Hoa Kỳ. [34] Phong trào này được lãnh đạo
bởi một thế hệ mới là những sinh viên hoạt động, và một phần nhờ vào chiến
tranh lạnh đã chấm dứt, nên phong trào đạt được những thành quả vang dội buộc
các tướng lãnh phải dân chủ hóa. [35] Từ ngày đó đến nay phong trào đã mất đi
khí thế, và những nhóm còn lại đứng ở giữa ngày nay chia ra làm hai bên, một
bên là những người luôn canh cánh việc thống nhất đất nước với Bắc Hàn, và bên
kia là những nguời chú trọng đến những vấn đề quốc nội như quyền lợi của người
lao động. [36]
Điều
đáng chú ý là những thay đổi song song trong ý thức xã hội cũng đang diễn ra
tại Việt Nam ngày hôm nay, hai thập niên sau Nam Hàn. Tình cảm chống Trung Quốc
bộc phát đã dâng lên gần đây, và những cuộc phản đối chống Trung Quốc đã xảy ra
năm 2008 và 2011 mặc dù bị chính quyền dập tắt. Những người phản kháng kết tội
chính quyển Việt Nam lấy lòng Trung Quốc và bỏ mặc quyền lợi của Việt Nam. Mặc
dù còn mong manh, phong trào mới xuất hiện đã bắt đàu nối kết các nhà trí thức
lại với nhũng tầng lớp thấp hơn trong xã hội, và những người chỉ trích chính
quyền trong nước với những người Việt chống cộng tại hải ngoại. Phong trào này
cho thấy rằng tinh thần quốc gia dân tộc hiện nay đang đấu tranh để thoát khỏi
sự điều khiển của những người cộng sản. Cuộc đấu tranh này đang được tiếp sức
bởi nhu cầu đòi hỏi dân chủ đang lớn dần giữa nhiều nhóm tại Việt Nam. Mặc dù
Việt Nam ngày nay không phải là Nam Hàn những năm 1980, vì những ý nguyện dân
chủ của Việt Nam phải đương đầu với một nhà nước mạnh bạo hơn và đang cố thủ
hơn nhiều lần, và đó là điểm chú trọng của phần kế tiếp sau đây.
(còn
nữa)
No comments:
Post a Comment