Vũ Thành
Công (thực hiện)
Đăng Bởi Một Thế Giới - 06:54 19-01-2014
Vào
ngày 19.1.1974, Trung Quốc đã bất ngờ tấn công và chiếm giữ Hoàng Sa. Ngày
17.1, Báo Một Thế Giới đã có cuộc phỏng vấn Giáo sư Carl Thayer (Học viện Quốc
phòng Úc) về công cuộc bảo vệ chủ quyển của Việt Nam đối với Hoàng
Sa.
Theo
ông Việt Nam cần làm gì để tiếp tục đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối
với Hoàng Sa, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng gây hấn? Liệu các hành động
cứng rắn có phù hợp hay không? Tại sao?
Việt Nam hiện có 3 lựa chọn liên quan tới tuyên bố
chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa:
(1) Chấp nhận hiện thực rằng Trung Quốc đã chiếm giữ
và quản lý Hoàng Sa
(2) Cần tiếp tục khẳng định tuyên bố chủ quyền thông
qua các biện pháp chính trị và ngoại giao
(3) Có thể cố gắng “giành lại” Hoàng Sa bằng lực
lượng quân sự.
Trong đó, tôi cho rằng lựa chọn (2) là khả thi
nhất trong bối cảnh hiện tại. Để có thể duy trì tuyên bố chủ quyền với quần đảo
Hoàng Sa, Việt Nam cần phải phản đối tất cả hành động tăng cường yêu sách chủ
quyền của Trung Quốc.
Ví dụ trường hợp chính quyền tỉnh Hải Nam áp đặt các
quy định đánh cá mới có hiệu lực từ 1.1.2014, nếu Việt Nam không phản đối hành
động này, nó sẽ được xem như là sự thụ đắc của Trung Quốc trong luật quốc tế.
Xung đột tuyên bố chủ quyền chỉ có thể được giải
quyết bằng luật pháp quốc tế khi cả hai quốc gia đều đồng ý. Và Trung Quốc sẽ
không thảo luận về tranh chấp Hoàng Sa với Việt Nam vì Trung Quốc càng chiếm
giữ Hoàng Sa lâu bao nhiêu, thì ưu thế của Trung Quốc càng lớn hơn bấy nhiêu.
Nhưng nếu Việt Nam kiên trì khẳng định các tuyên bố
chủ quyền, thì có thể (dù không chắc chắn) Trung Quốc sẽ thảo luận vấn đề Hoàng
Sa với Việt Nam vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Trong trường hợp này,
dù chỉ là tranh chấp song phương, nhưng vẫn có khả năng hai bên đồng ý nhờ đến
bên thứ ba làm trọng tài, ví dụ như Tòa án Công lý quốc tế.
Vì sự bất đối xứng trong quyền lực kinh tế và quân
sự nên Việt Nam sẽ khó có thể hy vọng giành lại Hoàng Sa bằng sức mạnh quân
sự.
Giáo sư Carl Thayer - Học viện Quốc phòng Úc (Ảnh:
Nghĩa Phạm)
Việt
Nam cần xây dựng những mục tiêu dài hạn nào trong kế hoạch bảo vệ chủ quyền đối
với Hoàng Sa? Mục tiêu khả thi nhất là gì? Ví dụ như cho cả thế giới biết về sự
đấu tranh không ngừng nghỉ của Việt Nam và Trung Quốc đã chiếm giữ Hoàng Sa bất
hợp pháp?
Việt Nam và Trung Quốc nên chân thành thực
hiện Hướng dẫn về các nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các tranh
chấp hàng hải. Việt Nam nên duy trì tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa
thông qua các biện pháp chính trị và ngoại giao.
Đồng thời, hai bên nên ký kết thỏa thuận hợp tác
đánh cá để ngư dân Việt Nam có thể đánh bắt tại vùng biển xung quanh Hoàng Sa,
mà không làm phương hại đến các tuyên bố chủ quyền.
Việt Nam nên sử dụng các biện pháp ngoại giao để kêu
gọi Trung Quốc đồng ý thảo luận về bất cứ hành động quản lý nào mà Trung quốc
muốn đưa ra và tác động của nó tới quan hệ với Việt Nam.
Theo
ông, chính phủ Việt Nam nên kết nối với giới học giả như thế nào để tăng cường
năng lực đấu tranh bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa?
Chính phủ Việt Nam đang tài trợ cho 5 hội thảo khoa
học quốc tế về biển Đông cho các học giả trong và ngoài nước. Như hội nghị do
Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức vào năm ngoái đã đưa ra các thông tin rất quan
trọng về Đội Hoàng Sa và các học giả nước ngoài cũng được đưa tới đảo Lý Sơn.
Tôi đề nghị nên tiếp tục tổ chức các hội nghị như
vậy và mỗi hội thảo nên có ảnh hưởng cụ thể và riêng biệt để xác định các vấn
đề cốt lõi trong tuyên bố chủ quyền của Việt Nam. Năm nay Đại học Tôn Đức Thắng
tại TP.HCM cũng sẽ tổ chức một hội nghị quốc tế về biển Đông.
Thêm vào đó, Việt Nam cũng đã tổ chức rất nhiều hội
thảo và hội nghị chuyên đề với các học giả trong nước. Có lẽ bây giờ là thời
điểm tốt nhất để tổ chức một chuỗi các hội thảo trong nước dành cho học giả
Việt Nam ở trong và ngoài nước, cụ thể là những người có hiểu biết về chính
quyền Sài Gòn cũ.
Việt Nam cũng nên xem xét việc tổ chức một buổi hội
thảo cho các nhà sử học của Việt Nam và Trung Quốc để nhìn nhận lại trận chiến
Hoàng Sa năm 1974.
Tất cả tham luận và nghiên cứu trong các hội thảo và
hội nghị này nên được công bố cho công chúng. Có thể thông qua internet, DVD
hoặc là sách. Hiện tại điều này vẫn đang được làm tốt và nên tiếp tục công bố
thêm các nghiên cứu chuyên ngành.
Để có thể thành công thì cần xây dựng một kế hoạch
nghiên cứu dài hạn để xem xét tất cả các vấn đề cốt lõi một cách có hệ thống.
Liệu
Việt Nam có thể kỳ vọng vào sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế hay không? Tại sao?
Những quốc gia nào có thể sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam?
Sau khi tham gia vào ASEAN, Việt Nam cũng đã tham
gia vào quá trình thảo luận kéo dài và không thành công giữa Trung Quốc và ASEAN
về một Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC).
Trên thực tế, vào đầu những năm 2000, cả Trung Quốc
và ASEAN đều đã trao đổi bạn dự thảo COC và một nhóm làm việc đã được lập ra để
hợp nhất hai bản thảo này. Nhiều bất đồng đã nảy sinh và không thể giải quyết,
dẫn tới sự chấp nhận “Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông” (DOC) thay
cho C0C vào tháng 11.2002.
Một trong những lý do chính trong tranh chấp là phạm
vi địa lý của COC. Việt Nam muốn nó bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, nhưng Trung
Quốc từ chối. Và rõ ràng là tất cả các nước ASEAN khác đều coi tuyên bố của
Việt Nam đối với Hoàng Sa là vấn đề song phương với Trung Quốc.
Vì vậy, tôi đánh giá là cộng đồng quốc tế sẽ muốn
thấy tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa
được giải quyết hòa bình theo luật pháp quốc tế, mà không có sự ép buộc hay đe
dọa sử dụng vũ lực.
Đồng thời, theo luật pháp quốc tế, nếu có tranh chấp
chủ quyền đối với lãnh thổ, các bên liên quan tới tranh chấp không được phép
thực hiện các hành động đơn phương và phải hợp tác với các bên khác.
Trung Quốc dường như “cố ý” không nhận ra rằng họ
đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam về Hoàng Sa. Vì vậy sẽ rất khó, nếu
không muốn nói là không thể, để các quốc gia khu vực tham gia trực tiếp.
Nếu lấy ví dụ về phản ứng quốc tế đối với sự ban
hành luật đánh cá mới trên biển Đông bởi chính quyền tỉnh Hải Nam, chúng ta có
thể thấy chỉ có Philippines, vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản và
Mỹ là phản đối.
Đây là một chỉ dấu cho thấy 8 quốc gia thành viên
khác của ASEAN, dù không đồng ý với hành động của Trung Quốc, nhưng cũng không
muốn tham gia vào. Hầu hết các quốc gia này đều lo ngại sẽ chọc giận Trung
Quốc. Vì vậy, không có quốc gia nào trong đó có thể sẵn sàng cung cấp nguồn lực
và hỗ trợ cho Việt Nam.
Vũ
Thành Công (thực hiện)
No comments:
Post a Comment