Mercredi
8 Janvier 2014
Các
« học giả, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông » Việt Nam trong trong
bài
phỏng vấn cùng đồng ý với nhau ở điểm « công hàm Phạm Văn Đồng
không có giá trị pháp lý ràng buộc ».
Tuy
nhiên, lập luận của một số các học giả quốc tế thì không vậy.
Giáo
sư Greg
Austin trong tập “China’s Ocean Frontiers - International Law”, hay Thomas
Bradford, trong « The Spratly Island Imbroglio : a tangled web of
conflict », cùng cho rằng VN đã bị phạm nguyên tắc luật học
« Estoppel ».
Theo
Thomas Bradford, công hàm Phạm Văn Đồng có nội dung « tái xác nhận sự công
nhận của Việt Nam về chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo », do đó VN
bị « Estopped ».
Còn
Greg Austin thì cho rằng công hàm của ông Phạm Văn Đồng có hiệu lực thuyết phục
nhất trong việc khẳng định HS và TS thuộc TQ. Theo học giả này, Công hàm Phạm
Văn Đồng là một văn kiện cấp quốc gia, của chính phủ này gởi đến một chính phủ
khác. Quan trọng là vì là nhà nước VNDCCH không chỉ đã không có văn kiện phản
đối về tuyên bố chủ quyền của TQ tại các đảo, mà nhà nước này lại còn ra tuyên
bố ủng hộ nó.
Học
giả này dẫn ý kiến nhiều luật gia để chứng minh rằng luật quốc tế rất rõ ràng
về nguyên tắc « Estoppel », trường hợp bị mất tố quyền. Tức là, khi
một nước trong quá khứ đã thừa nhận chủ quyền của một nước khác tại một vùng
lãnh thổ, nước này trong tương lai sẽ không được thụ lý để tranh dành chủ quyền
tại vùng lãnh thổ đó nữa.
Học
giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập « La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys » thì
phản biện lại ý kiến cho rằng VN bị « Estopped ». Quí độc giả có thể
đọc thêm bài
viết ở đây.
Lập
luận của bà là : « những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của
chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không
phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển
nhượng những gì người ta không kiểm soát được… »
Câu
« Người ta không thể bán hay cho cái mà mình không có » thấy viết
trong bài báo đã dẫn, hay lập luận « Người ta không thể từ bỏ về cái mà
người ta không có chủ quyền » thường thấy nhắc đi nhắc lại ở các bài viết
của các học giả VN, đều bắt nguồn từ ý kiến này của bà Monique Chemillier-Gendreau.
Tuy
nhiên học giả Monique Chemillier-Gendreau có nhắc một điều quan trọng khác, mà
các học giả VN thường không nhắc tới : công hàm Phạm Văn Đồng có thể làm
cho VN vướng vào nguyên tắc « acquiescement ».
Lập
luận của bà Monique Chemillier-Gendreau cũng tương tự với học giả Greg Austin.
Việc nhà nước VNDCCH đã im lặng trước sự khẳng định chủ quyền của TQ tại các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo nội dung tuyên bố 4-9, hoặc các tuyên bố
của VNDCCH liên quan đến vùng nước của TQ tại Hoàng Sa, cũng như những bài viết
trên báo Nhân Dân... có thể cấu thành yếu tố « acquiescement »,
tức sự « đồng thuận ». Tức là nhà nước VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của
Trung Quốc tại hai quần đảo hoàng Sa và Trường Sa trong một thời gian dài từ
1958 đến 1975. Bây giờ nhà nước VN không thể nói ngược lại.
Quí
độc giả có thể đọc bài ở đây về nguyên tắc « acquiescement ».
Nếu VN đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế, VN có thể bị xử
thua kiện.
TS
Trần Trường Thủy trong bài phỏng vấn cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng chỉ nhằm
công nhận lãnh hải 12 hải lý chứ không nói đến vấn đề chủ quyền.
Trong
bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 của Trung Quốc có viết rõ rệt hiệu lực 12 hải lý
không chỉ ở đất liền các hải đảo thuộc TQ mà còn ở « Tây Sa » và
« Nam Sa » (tức HS và TS của VN). Các học giả quốc tế, kể cả học giả
Monique Chemillier-Gendreau (là người bênh vực lập trường và thiết lập hồ sơ
pháp lý cho VN), đều cho rằng sự im lặng của nhà nước VNDCCH về điều này đã
khiến VN bị phạm nguyên tắc « Acquiescement ». Mặt khác, những tuyên
bố, những bài báo trên Nhân Dân, hoặc sự im lặng của VNDCCH khi hải quân TQ
đánh chiếm Hoàng Sa, đều củng cố yếu tố « acquiescement » (nếu
không nói là estoppel).
Vấn đề là, VN hôm nay có thể nói ngược lại, là chỉ
công nhận lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi vùng lãnh thổ của TQ, mà không tôn
trọng ở HS và TS, với lý do HS và TS thuộc VN hay không ?.
Theo các nguyên tắc luật học như
« Estoppel » hay « Acquiescement », việc này là không !
Nhưng nếu xem lại trả lời phỏng vấn
trước đây của chính tác giả của công hàm, ông Phạm Văn Đồng, hay bộ tưởng bộ
Ngoại giao VN thời đó là ông Nguyễn Mạnh Cầm, cả hai đều nhìn nhận nội dung
công hàm nhằm ủng hộ chủ quyền của TQ tại HS và TS. Lý do được giải thích là vì
thời chiến nên phải làm vậy.
Lập
luận của TS Trần Trường Thủy trong bài phỏng vấn e rằng không phù hợp với thực
tế.
TS
Nguyễn Nhã thì cho rằng « công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị
pháp lý mà chỉ mang ý nghĩa hậu thuẫn chính trị trong giai đoạn hai phe đối đầu
ở Việt Nam. »
Có
giá trị pháp lý hay không ta cần phải tìm hiểu về tập quán quốc tế và luật quốc
tế có quan niệm thế nào về các tuyên bố, hay « công hàm » có nội dung
tương tự như công hàm Phạm Văn Đồng, hay Tuyên bố về lãnh hải ngày 4 tháng 9
của TQ.
Tuyên
bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung
Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố đơn phương có hình thức
« décision - quyết định » (hơn là hình thức
« notification »). Tương tự như tuyên bố « notification »
của Trung Quốc về Vùng
nhận diện phòng không trong biển Hoa Đông (ADIZ) vừa rồi.
Theo tập quán quốc tế hiện nay, khi quốc gia ra
tuyên bố về bề rộng lãnh hải của nước mình (hay về vùng ADIZ, thí dụ vậy),
thường thông báo đến các quốc gia khác « lập trường » của nước mình qua
hình thức « notification - thông báo ». Các nước khác, nếu công nhận
lập trường này, sẽ gởi công hàm trả lời mang hình thức « reconnaissance –
công nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm « phản đối –
protestation ».
Bất kể tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của TQ mang
hình thức « Désision – quyết định » (mang tính ép buộc cho phía nhận
quyết định) hay « Notification – thông báo », công hàm của ông Phạm
Văn Đồng là một Tuyên bố đơn phương, công khai, mang hình thức « công
nhận » tuyên bố của TQ. (Ở đây là công nhận tuyên bố chủ quyền lãnh thổ
cũng như việc mở rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ).
Theo quốc tế công pháp, các tuyên bố đơn phương nói
trên đều có giá trị ràng buộc pháp lý.
Lập luận của TS Nguyễn Nhã như thế là không thuyết
phục, vì không phản ảnh đúng tập quán cũng như luật pháp quốc tế. Có thể công
hàm Phạm Văn Đồng phía VN bày tỏ lập trường « chính trị » ủng hộ TQ.
Nhưng vấn đề tranh chấp HS đã có từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là
« không biết » để mà ra tuyên bố ủng hộ như vậy.
TS Nhã cũng nói rằng :
« Theo
Hiệp định Geneve (1954) mà Trung Quốc đã ký, về mặt pháp lý quốc tế Thủ tướng
Phạm Văn Đồng không có trách nhiệm quản lý phần lãnh thổ phía Nam. Sau khi
thống nhất đất nước năm 1975, chính quyền đã tuyên bố khẳng định chủ quyền của
Việt Nam rồi. Về mặt pháp lý quốc tế phù hợp, chính quyền có thẩm quyền quản lý
Hoàng Sa Trường Sa liên tục, từ nhà Nguyễn tới thời Pháp thuộc trong đó có
nhiều chính phủ khác nhau và như vậy cho đến sau khi thống nhất các chính phủ
có thẩm quyền đều khẳng định chủ quyền của mình và thực thi liên tục không đứt
đoạn, vấn đề này thể hiện giá trị pháp lý quốc tế. »
Lập
luận cho rằng « Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có trách nhiệm quản lý phần
lãnh thổ phía Nam » của TS Nguyễn Nhã cần phải xét lại. Ý của TS Nhã như
vậy có nghĩa là, vì không thuộc phạm vi quản lý của mình thì mình có thể tuyên
bố thế nào cũng được, không có hiệu lực ràng buộc pháp lý ?
Hiệp
định Genève 1954 phân chia VN bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lãnh thổ. Đường
phân chia này chỉ có giá trị tạm thời nhằm tập kết quân sự. Điều 6 của Tuyên bố
chung các nước tham gia về Hiệp đinh Genève khẳng định rằng, các bên không thể
viện dẫn bất kỳ lý lẽ gì để đồng hóa đường phân chia quân sự tạm thời như là
đường biên giới phân chia lãnh thổ hay chính trị.
Tức
là, nội dung Hiệp định Genève 1954 khẳng định Việt Nam là một quốc gia duy
nhất, tạm thời bị phân chia. Việc thống nhất sẽ được diễn ra bằng thể thức
« dân chủ, tự do » chậm lắm là tháng 12 năm 1956.
Cho
dầu cuộc bầu của thống nhất đất nước đã không diễn ra, nhưng đến thời điểm
tháng 9 năm 1958 (hoặc cho đến tháng 4 năm 1975), hai miền VN đều thuộc về một
quốc gia Việt Nam duy nhất.
Hiến
pháp của VNDCCH, qua nhiều bản hiến pháp khác nhau, đều qui định lãnh thổ nước
Việt Nam trải từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Do
đó, trên danh nghĩa, cả hai bên VNDCCH hay VNCH, đều có trách nhiệm như nhau
trong việc bảo vệ lãnh thổ, cho dầu lãnh thổ đó do bên này hay bên kia quản lý.
Lý do đơn giản là vì hiến pháp đã qui định như vậy. Và đó cũng là nguyên tắc
toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia bị phân chia, như trường hợp Nam, Bắc Hàn
hay Đông, Tây Đức.
Về
dữ kiện « Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chính quyền đã tuyên bố
khẳng định chủ quyền của Việt Nam rồi » của TS Nhã, theo tôi cần kiểm
chứng lại. Sau 30-4-1975, hai bên Chính phủ Lâm thời Cộng hòa MNVN cũng như
chính phủ VNDCCH đều không có tuyên bố nào liên quan đến chủ quyền HS và TS.
Về
lập luận của TS Nguyễn Nhã « chính quyền có thẩm quyền quản lý Hoàng Sa
Trường Sa liên tục, từ nhà Nguyễn tới thời Pháp thuộc trong đó có nhiều chính
phủ khác nhau và như vậy cho đến sau khi thống nhất các chính phủ có thẩm quyền
đều khẳng định chủ quyền của mình và thực thi liên tục không đứt đoạn, vấn đề
này thể hiện giá trị pháp lý quốc tế. » tôi nghĩ rằng có nhiều điều cần làm
sáng tỏ.
Thứ
nhất, vấn đề liên tục quốc gia. Người ta dễ dàng chấp nhận chủ quyền HS và TS
từ tay của nhà nước phong kiến VN, chuyển sang nhà nước bảo hộ Pháp, sau đó
chuyển sang VNCH. Việc này được thể hiện do việc kế thừa và sự liên tục
quốc gia. Nhưng từ VNCH chuyển sang CHXHCNVN hiện nay thì có nhiều điều không
rõ rệt. TS Nhã có thể cho biết chủ quyền của VNCH tại HS và TS
« chuyển » sang CHXHCNVN từ khi nào ? Việc « chuyển »
này đã thể hiện ra sao ?
Việc
kế thừa sẽ đặt lại các vấn đề về bang giao quốc tế, gồm các việc tái xác định,
hay phủ định, hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố đơn phương của nhà nước
(hay quốc gia) tiền nhiệm đã thể hiện đối với các nước khác.
Sau
1975, chính phủ CMLT đã im lặng về tình trạng pháp lý ở HS và TS. Trong khi đó,
nước CHXHCNVN, kế thừa VNDCCH, phải có nghĩa vụ tôn trọng những kết ước, những
tuyên bố đơn phương về một vấn đề quốc tế... của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH
(như công hàm Phạm Văn Đồng).
Không
thấy TS Nhã nói cụ thể. Riêng tôi có bài viết ở đây, nói về vấn đề « liên
tục quốc gia và sự kế thừa ». Hy vọng được sự góp ý của TS Nguyễn Nhã.
Về
lập luận của TS Hoàng Việt, giảng viên Luật quốc tế ở đại học Sài Gòn :
Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về
công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954
chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng
hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
Theo
tôi, thì đây là ý kiến thuộc về « tình cảm cá nhân » của ông Hoàng
Việt chứ không phải là ý kiến của một giáo sư về Luật quốc tế hay là một học
giả chuyên nghiên cứu Biển Đông.
Điều
cốt lõi để tìm hiểu thẩm quyền của ông Phạm Văn Đồng trong lập luận này là hai
thực thể VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia » riêng biệt, tức có lãnh
thổ, có dân chúng, có một nhà nước riêng biệt ; hay là hai vùng lãnh thổ
thuộc về một quốc gia bị phân chia ? TS Hoàng Việt không nói rõ điều này.
Nếu
VNDCCH và VNCH là hai quốc gia riêng biệt, tách ra từ một quốc gia thống nhất
trước đó như trường hợp Pakistan với Ấn Độ, theo tôi ông Phạm Văn Đồng có tư
cách để nói về HS và TS, là đưa ra lập trường của bên thứ ba, là nước VNDCCH,
về tranh chấp giữa hai bên VNCH và Trung Quốc. Theo nội dung công hàm 1958,
VNDCCH quan niệm HS và TS thuộc TQ.
Nếu
VNDCCH và VNCH là hai vùng lãnh thổ của một quốc gia bị phân chia (như trường
hợp Nam, Bắc Hàn hay Đông, Tây Đức), thì ông Phạm Văn Đồng cũng có thẩm quyền
ra một tuyên bố về lập trường của một bên, liên quan đến một tranh chấp đã lưu
cữu từ 50 năm qua, giữa Trung Hoa và nhà nước bảo hộ Pháp (sau đó chuyển qua
VNCH).
Bài
viết của tôi ở đây, với
những dẫn chứng cho thấy ông Phạm Văn Đồng, với tư cách thủ tướng chính phủ, là
người có thẩm quyền để ra một tuyên bố tương tự như công hàm 1958.
Bài
báo kết luận :
Những
phát biểu vừa nêu cho thấy các học giả, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông có
chung lập luận là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Nếu có tranh tụng ra Tòa án Quốc tế thì Trung Quốc sẽ không dành phần thắng.
Bởi vì ông Phạm Văn Đồng qua công hàm đó không có sự cam kết rành mạch về chủ
quyền Hoàng Sa-Trường Sa, hơn nữa người sở hữu Hoàng Sa-Trường Sa lúc đó được
quốc tế công nhận là VNCH. Và quan trọng hơn cả người ta không thể bán hay cho
một cái gì mà mình không có.
Công
hàm Phạm Văn Đồng có giá trị pháp lý hay không, nhiều học giả quốc tế đã nói.
Các ý kiến, các lập luận của các học giả VN trong bài phỏng vấn này, theo tôi
là không thuyết phục.
Nếu
viết rằng « Nếu có tranh tụng ra Tòa án Quốc tế thì Trung Quốc sẽ không
dành phần thắng », câu hỏi đặt ra tại sao phía VN hiện nay không đề nghị
với TQ để đưa vấn đề tranh chấp HS ra một tòa án quốc tế để giải quyết ?
Nếu
phía TQ từ chối, việc này chỉ củng cố thêm yêu sách chủ quyền của VN tại HS và
TS.
Tại
sao VN không kiện TQ (như Phi đã làm) ?
Phải
chăng phía VN lo ngại bị bác đơn, do hệ quả « Estoppel » đã nói ở
trên ?
Publié
par Nhan Tuan Truong à 09:43
-----------------------------------
No comments:
Post a Comment